Egypt Israel Oct 2007




Bấm nút "Download Now"
để cài Windows Media Player. 
Windows Media Player 11
Download Now

Windows Media Download Center
 

Sunday, August 21, 2005

 

BẠN CÓ THỂ LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO NGÀY NAY THẾ NÀO?

Chương Ba


Viết theo Lm. Richard Rohr

Trong suốt thời gian vừa qua chúng ta đã khai triển hai chương đầu của cuốn sách giá trị của linh mục Rohr, dòng Phan Sinh. Chúng ta đã hiểu biết một cách tổng quát và đôi khi có vẻ trừu tượng về quá khứ, khía cạnh trong sáng của truyền thống Công giáo cũng khía cạnh đen tối của lịch sử Công giáo. Chúng ta đã hiểu biết về nền văn hóa Đông phương và Tây phương, về các nhóm sắc tộc và các quốc tịch, về tâm lý nam tính và nữ tính. Chúng ta đã nhìn xem những ưu và khuyết điểm của quá khứ Giáo hội đã chiếu sáng hoặc phủ bóng tối lên Giáo hội ngày nay. Bây giờ là thời điểm tác giả thay đổi tầm nhấn mạnh và tỏ ra chuyên biệt và cụ thể hơn về cách thức chủ thuyết Công giáo cần phải được các cá nhân và các cộng đoàn đặc biệt sống ra sao. Bây giờ là thời điểm tác giả đề cập về người Công giáo phải sống thế nào trong hiện tại và tương lai.

Cùng với tác giả ngay từ đầu, chúng ta đã hỏi tại sao (why) là Công giáo; và bây giờ là thời điểm đặt ra câu hỏi phải sống Công giáo thế nào (how). Giống như câu hỏi đầu, câu hỏi này là một câu hỏi mới. Trong quá khứ, khi lớn lên người ta biết trở thành Công giáo thế nào. Người ta học về Công giáo bằng cách thấm dần nhờ gia đình, giáo xứ và nhóm sắc tộc. Người ta không đặt vấn đề mình trở thành Công giáo thế nào. Đơn giản khi lớn lên đã là Công giáo rồi. Công giáo tựa như không khí người ta thở, như sữa mẹ người ta được nuôi dưỡng, như thức ăn người ta được nuôi nấng. Người ta biết mình là Công giáo thế nào vào lúc người ta lớn lên đủ để nhận ra rằng mình đã là Công giáo trong lúc những người khác trong thế giới không phải thế.

Nếu có lợi điểm lớn lên đã tự động là Công giáo rồi, thì càng có lợi điểm to lớn hơn khi chọn là người Công giáo. Ơn thánh luôn luôn hoạt động tốt hơn trong thực tế tự do và quyết định cá nhân. Đó là trường hợp những người trở lại luôn luôn hiểu biết đạo hơn những người đã sinh ra và lớn lên trong Giáo hội. Đó là trường hợp của những người Công giáo nổi tiếng trở lại như Thánh Phaolô, Thánh Augustiô trong thế giới ngày xưa; John Henry Newman và G.K. Chesterton cách đây không lâu; Thomas Merton và Dorothy Day trong thời đại chúng ta.

Chọn là người Công giáo cũng giống như chọn là Kitô hữu. Ngay cả người Công giáo cũng phải làm cuộc lựa chọn này. Họ phải nghe tiếng Chúa gọi đi theo Chúa Giêsu, phải quy phục Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã quy phục, phải được tràn đầy Thánh Thần như Chúa Giêsu khi xưa. Trước tiên họ phải mong muốn đi vào đối thoại với Chúa và rồi đáp trả những gì họ nghe Chúa nói với họ. Một khi họ nói tiếng xin vâng trong cuộc đối thoại này, họ lắng nghe xem nơi đâu Chúa dẫn dắt họ tới. Họ đi vào mối giây thông hiệp riêng tư với Chúa.

Nhiều tín hữu tốt lành, nhiều vị thánh, nói theo kiểu Công giáo, họ đi vào mối giây thông hiệp này, nhưng họ không nghe Chúa gọi họ làm người Công giáo. Có lẽ họ cũng nhìn thấy một cách đau khổ khía cạnh bóng tối của Công giáo hơn là khía cạnh trong sáng. Có lẽ họ không bao giờ gặp một người Công giáo nói với họ về Chúa. Có lẽ họ chưa bao giờ ở trong Giáo hội Công giáo. Trái lại cũng có những người nghe Chúa gọi họ từ trong Giáo hội Công giáo hoặc đến với Giáo hội Công giáo. Trong quá khứ họ không chính thức là người Công giáo. Ngày nay cả khi họ được rửa tội là người Công giáo, họ nghe tiếng Chúa gọi họ sống cuộc đời như những Kitô hữu trong truyền thống Công giáo.

Một khi người ta nghe tiếng gọi này từ Chúa, niềm tin tôn giáo của họ không còn phải là vấn đề "phải." Họ không phải là người Công giáo; họ không phải đi lễ ngày Chúa Nhật; họ không phải tin vào quyền bính của giáo hoàng. Hơn thế, họ chọn làm những việc này vì họ sống trong mối giây thông hiệp riêng tư với Chúa và họ nghe Chúa hỏi họ đi theo Ngài trong Giáo hội Công giáo. Đây là lối sống đạo trưởng thành là người Công giáo hơn là chỉ đơn giản sinh ra và lớn lên là người Công giáo. Đây là cách thức là người Công giáo cởi mở với nhiều người hơn là trong quá khứ. Đây là cách thức đương thời là người Công giáo và trong thời đại chúng ta, khi không ai có thể ép buộc chúng ta là Công giáo, đó là cách thức thật thích hợp.

Kỳ tới: Là người Công giáo mang ý nghĩa gì?

 

Công giáo Tiêu thụ

Viết theo Lm. Richard Rohr

Trong quá khứ, Công giáo đã chịu đựng để duy trì được sức mạnh toàn vẹn khi quy tụ được cả nam tính lẫn nữ tính nơi chính mình trong một tình trạng căng thẳng có hiệu quả. Nhưng rồi cũng xẩy ra những đổ vỡ trong quá khứ thành nhiều mảnh khi ép buộc bằng sức mạnh của mình. Sự khôn ngoan của truyền thống phải là sự phối hợp giữa lòng nhiệt thành của môn sinh với lòng kiên nhẫn của sư phụ.

Tuy nhiên, ngày nay Công giáo đang trong hiểm nguy đánh mất linh hồn của mình. Công đồng Vaticanô II làm giảm thiểu nhiều tính chất trung cổ của Giáo hội với đường lối tu đức nữ tính của truyền thống Giáo hội. Nhìn bề mặt chúng ta có thể nhìn thấy những thay đổi như giảm thiểu lòng tôn sùng Đức Mẹ và việc thay đổi cách ăn mặc có vẻ trần thế hơn cho hàng giáo sĩ. Tuy nhiên, dưới vẻ bề mặt đó, những thay đổi thâm sâu hơn và khó nhìn ra đang tiến hành.

Đời sống tâm linh bao gồm nhiều lãnh vực đời sống. Ở đây chúng ta giới hạn vào ba lãnh vực: đời sống tri thức của Giáo hội tân tiến, đời sống biểu tượng và đời sống cầu nguyện.

Công giáo hãnh diện về truyền thống tri thức. Các bậc Giáo phụ trong Giáo hội như Athanesius, John Chrysostom, Augustinô, và một số vị khác, phần đông là giám mục là những nhà lãnh đạo trí thức của thời đó, viết các tác phẩm thần học và giáo lý, sáng tác phụng vụ, tranh biện các vấn đề tín lý và luân lý nơi các diễn đàn công cộng. Các Đại học lớn nhất tại Âu châu - Oxford, Paris, Bologna, và một số nơi khác - lớn lên dần từ các tu viện và các trường của vương cung thánh đường, đã duy trì được kho khôn ngoan của nền cổ đại cổ điển và đem lại đời sống mới theo lối dàn dựng của Kitô giáo. Qua thời Trung cổ và bước vào thời tân tiến, truyền thống tri thức Công giáo đã duy trì được các nghệ thuật tự do, nền giáo dục cởi mở trí óc hướng về nghệ thuật sống, như nền tảng cho hiểu biết thế giới nhân linh và vũ trụ vật chất chúng ta đang sống.

Một cuộc nghiên cứu mới đây của các đại học Hoa Kỳ kết luận rằng tất cả các phân khoa nổi tiếng hàng đầu tại Hoa Kỳ ngày nay, không một phân khoa nào nằm trong đại học Công giáo nữa, ngay cả trong các lãnh vực như triết học, thần học, đã được coi là thành trì truyền thống Công giáo. Tại mỗi đại học Công giáo mức đòi hỏi tốt nghiệp không còn phải là từ tám đến mười hai lớp trong các môn triết lý và thần học nữa như các thế hệ xưa kia, nhưng chỉ còn hai hoặc bốn hoặc sáu lớp là nhiều nhất. Các học viện Công giáo có nền giáo dục cao cấp hơn đang theo khuynh hướng tân tiến thay thế bằng huấn luyện nghề nghiệp cho các môn nghệ thuật tự do, theo khuynh hướng đặt việc học làm thế nào kiếm được công ăn việc làm cho cuộc sống.

Nhiều sinh viên Công giáo ngày nay không ý thức về ý tưởng nguyên thủy của đại học ít quan tâm đến chuẩn bị nghề nghiệp và những gì cần thiết cho cuộc sống. Mục đích của đại học thời trước là khai triển kho minh triết của mọi thời đại phát triển con người toàn diện. Nền đại học mang tính chất tâm linh hơn là chuyên biệt, đại đồng hơn là thực hành hẹp hòi. Và chúng ta có thể nói nền đại học này mang nữ tính nhiều hơn nam tính.

Ý tưởng nữ tính của nền giáo dục chính là thẩm định toàn cảnh trước khi đi vào các môn học chuyên biệt, chính là hiểu được mối tương quan giữa các sự vật và hiểu được chỗ đứng của chúng ta trong các mối tương quan đó. Nền giáo dục này khai triển ý thức trách nhiệm với thế giới chúng ta đang sống và săn sóc cho con người đang sống trong cuộc sống này. Tuy nhiên, ý tưởng nữ tính này ngày nay đang mất dần không những trong các đại học ngoài đời, nhưng ngay cả trong các đại học Công giáo nữa. Càng ngày những môn chính của các sinh viên càng hướng về các lãnh vực kỹ thuật và làm tiền, và như vậy truyền thống cao cả theo đuổi kho tàng khôn ngoan
đang bị bỏ rơi, nhượng đất cho theo đuổi tư lợi.

Viễn ảnh giáo dục của chúng ta đang bị thu hẹp lại song song với việc co rút lại viễn ảnh biểu tượng (symbolic vision) của chúng ta. Như chúng ta đã thấy trong quá khứ các nhà lãnh đạo Kitô giáo có khả năng sáng tạo nghệ thuật. Thời xưa, các bí tích của Giáo hội khai triển từ những nghi lễ đơn sơ thành lễ nghi đầy biểu tượng trang trọng lôi kéo các tín hữu đi vào cảm nghiệm Thiên Chúa và chiêm ngắm các mầu nhiệm Kitô giáo. Thời Trung cổ, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, kịch nghệ đã khơi động óc tưởng tưởng các tín hữu đến các thực tại vô hình. Tuy nhiên, ngày nay cả hai lãnh vực phụng vụ và nghệ thuật ít gây được sáng tạo và viễn ảnh.

Đời sống biểu tượng Kitô giáo giảm thiểu dần trong thế giới chúng ta sống hiện nay. Khi xã hội chúng ta càng ngày trở thành thực tiễn và kỹ thuật, chúng ta ít được đẩy tới chiêm niệm và ngược lại tới vận động nhiều hơn. Khi cuộc sống chúng ta trở thành bận rộn hơn, chúng ta ít có thời giờ thẩm định được mạc khải của Thiên Chúa trong thế giới chung quanh. Kết quả là chúng ta đánh mất những đụng chạm tới ngôn ngữ của biểu tượng, chúng ta đang đánh mất khả năng tiếp xúc với bí tích. Các Kitô hữu không nói với thế giới qua nghệ thuật. Trong khi đó phần đông nghệ thuật trong thế giới chúng ta là nghệ thuật thương mại.

Nghệ thuật Kitô giáo chỉ còn là lặp đi lặp lại buồn tẻ một nền nghệ thuật tôn giáo của quá khứ. Nhạc phụng vụ giới hạn với những gì thích hợp trong sách lễ, và có một lối thánh ca mới đang được viết ra. Chính phụng vụ đang giảm thiểu chiều dài và kém tính chất biểu tượng. Nhiều nhà thờ mới được xây dựng theo các khối hình hộp ít gây linh cảm. Một cách buồn thảm, Giáo hội không còn là người đỡ đầu của nghệ thuật như trong quá khứ.

Dầu cho thế nào đi nữa, ít ra Giáo hội phải là người đỡ đầu của cầu nguyện và nâng đỡ sức tăng trưởng tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta có đủ lý do để tự hỏi thực tế có như vậy không? Ngoài việc thâu hẹp viễn ảnh giáo dục và co rút đời sống biểu tượng, xem ra chúng ta đang đau khổ vì đời sống cầu nguyện đang suy sụp trong Giáo hội.

Một lần nữa những cuộc song hành này đang diễn ra trong nền văn hóa của chúng ta. Những hiện tượng nhìn thấy được là việc tục hóa vẫn gia tăng trong xã hội chúng ta, việc đẩy lui những gì liên quan đến cầu nguyện và tôn giáo trong nền giáo dục công cộng và việc tách rời giữa nhà nước và tôn giáo đã được Quốc hội đóng khung. Chúng ta đau khổ vì những gì đang xẩy ra chung quanh trong nền văn hóa của chúng ta hơn là trong quá khứ.

Trong thế giới cổ đại và trung cổ và cho tới mới đây thôi trong thời tiên tiến, trở thành người Công giáo có nghĩa là được đưa vào đại truyền thống Do Thái-Kitô giáo. Trong những thế kỷ đầu người ta được đưa vào cộng đoàn Kitô giáo sau tiến tình dài dẵng 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh chuẩn bị Đêm Canh thức Phục Sinh. Trong các thế kỷ Trung cổ người tín hữu được bao quanh bằng nền văn hóa Kitô giáo luôn luôn nói với họ về các tổ phụ Do Thái, các ngôn sứ, Chúa Giêsu và các môn đệ, Mẹ Maria và các thánh. Ngày nay nhiều người Công giáo lớn lên không hay biết về gia tài tôn giáo này.

Quên sót những sự kiện về quá khứ không quan trọng bằng quên sót những giá trị của các sự kiện này biểu tượng. Có một giá trị vượt xa những gì cầu xin Thiên Chúa khấng ban cho những ước muốn của mình. Có một giá trị của chiêm niệm chỉ học được trong cảm nghiệm thực hành đều đặn. Chỉ có một giá trị trong phát triển tâm linh được trình bầy trong hạnh các thánh và các tác phẩm thần bí, nhưng điều đó không được khám phá cho đến khi người ta đi vào đối thoại với các nhân vật anh hùng trong quá khứ và dần dần nhận ra những gì đã đưa các ngài tới chỗ cao cả.

Điều làm các ngài cao cả chính là mối tình tận hiệp cá thế với Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong chiêm niệm hàng ngày. Các ngài dành ra thời giờ lắng nghe tiếng Chúa gọi tiến đến một trình độ thực tại sâu thẳm hơn là thế giới bao quanh các ngài. Các ngài đáp ứng lời mời gọi của Chúa để triển nở thực tại tâm linh ngay chính trung tâm đời sống các ngài. Các ngài đi vào Nước Trời bằng cửa hẹp thay vì đi theo lối đường rộng rãi thênh thang của thành công và thành toại trong thế giới.

Dầu chúng ta nghe nói nhiều về cầu nguyện trong Giáo hội ngày nay, nhưng chúng ta nhìn thấy ít người thực sự được dậy cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện Công giáo - không kể Lễ Chúa Nhật, có tính cách cầu nguyện công cộng hơn là tư riêng - đã suy sụp khi nói về cầu nguyện, một bước xa rời khỏi chuyện thực tế. Chúng ta học cầu nguyện thực sự, tuy nhiên, không bằng nghe về cầu nguyện, cũng không bằng được bảo phải cầu nguyện, nhưng bằng đi vào cảm nghiệm cầu nguyện với những người khác. Ít có cơ hội đi vào cảm nghiệm này tồn tại trong Giáo hội ngày nay.

Cầu nguyện mang tính chất nữ tính. Đó không phải là tình trạng động, nhưng là tình trạng tĩnh. Đó không phải là hoàn thành, nhưng là an nghỉ. Đó không phải là thể hiện, nhưng là liên hệ thân tình. Đó là tập trung vào Chúa và tiếp nhận Lời Ngài nói với chúng ta trong thanh lặng. Cầu nguyện xẩy ra bên trong và được diễn tả ra bên ngoài bằng biểu tượng hoặc bằng lời hoặc bằng cử điệu hoặc bằng các sáng tạo nghệ thuật. Có lẽ linh hồn đang đi ra khỏi nghệ thuật Kitô giáo vì cầu nguyện đang đi ra khỏi đời sống Kitô giáo. Nghệ thuật diễn tả điều bên trong, nhưng nếu không có gì bên trong, cũng chẳng có gì để diễn tả.

Nền văn hóa Công giáo Hoa Kỳ của chúng ta cũng giống như nền văn hóa Hoa Kỳ tổng quát càng ngày càng mang nhiều nam tính, có nghĩa là càng hướng đến hoàn thành công việc, hướng đến quyền lực và hướng đến tiêu thụ nhiều hơn. Chúng ta đồng hóa thành công với khả năng tiêu dùng càng ngày càng nhiều. Chúng ta thần tượng hoá lối sống của những người giầu có và nổi tiếng là những người đã đạt tới trình độ tiêu sài vượt mức.

Đó là lý do tại sao các đại học của chúng ta đã bỏ rơi đi tìm kho khôn ngoan, mang nữ tính, mang hoạt động chiều sâu, để chạy theo khoa bảng và tài lộc. Chúng ta trở thành những nhà tiêu thụ giáo dục thay vì là những nhà đi kiếm tìm chân lý và kiến thức. Chúng ta làm chuyện đó không những trong các học đường. Chúng ta tham dự các khóa tu nghiệp hoặc hội thảo, chúng ta đọc sách báo hoặc nghe băng hoặc xem truyền hình, chúng ta mù quáng tin tưởng rằng chúng ta càng hưởng thụ nhiều, chúng ta càng trở thành hoàn hảo hơn. Không quan trọng môn chúng ta học hỏi là trần tục hoặc tôn giáo, kiểu mẫu và hiệu quả cũng giống nhau. Chúng ta trở thành những nhà kho chứa những thông tin tiêu dùng và quên lãng vì chúng ta không dành ra thời giờ cho tâm hồn sàng lọc qua những rác rưởi và tìm thấy bất cứ kho tàng nào ẩn tàng trong đó.

Tương tự thế, chúng ta đã đánh mất cảm quan của chúng ta về nghệ thuật vì chúng ta cho rằng phỏng đoán thì hay hơn. Thay vì trở thành mẫn cảm với nghệ thuật, chúng ta trở thành những tay tiêu dùng nghệ thuật. Trong bất cứ một đại tác phẩm nào, người nghệ sĩ đổ hết tâm hồn mình vào đó và tâm hồn chúng ta chỉ có thể nối kết vào đó bằng dành ra thời giờ chiêm ngắm và khai triển tâm tư vào đó. Tuy nhiên, điều chúng ta làm chỉ là chạy đua qua các bảo tàng viện, các phòng triển lãm để nhìn xem nhiều bao nhiêu có thể, chứ không cần dành ra thời giờ nhìn vào chiều sâu của tác phẩm. Chúng ta sưu tầm nghệ thuật tiêu thụ trong nhà chúng ta, với hy vọng hão huyền rằng nhờ chúng ta có nhiều tác phẩm chúng ta trở nên uyên bác hơn. Như vậy chúng ta cũng chẳng nhìn xem được tất cả những gì chúng ta đang có.

Công giáo tiêu thụ cũng có kiểu mẫu như thế và hậu quả cũng như thế thôi. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng đi nhà thờ, chúng ta càng trở thành đạo đức. Chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta đem người khác tới nhà thờ thì đương nhiên đời sống tâm linh của họ tốt hơn. Tuy nhiên làm như thế, chúng ta không giúp họ trở thành Kitô hữu hơn, thực ra chúng ta chỉ biến họ trở thành những người đi nhà thờ thì đúng hơn. Cả họ lẫn chúng ta chẳng tiến sâu vào những gì Giáo hội, phụng vụ, cầu nguyện mong muốn. Việc chúng ta dấn thân với Chúa chỉ là hời hợt bề ngoài, nhưng sự yếu kém và suy sụp được ngụy trang bằng lối sống đạo đức bề ngoài trong đời sống chúng ta. Lối sống tôn giáo này có thể là một hình thức đạo hạnh nghiện ngập.

Công giáo tiêu dùng rất có thể là tận cùng của truyền thống Công giáo. Nếu thành công, chủ nghĩa này hẳn còn tiếp tục là một hãnh diện của Công giáo, nhưng một Công giáo không hồn. Chủ nghĩa này vĩnh viễn hóa các cấu trúc nam tính của Giáo hội trong khi đành đánh mất nữ tính cởi mở tấm lòng đến với Chúa. Chủ nghĩa này lừa gạt chúng ta đi vào suy nghĩ rằng bao lâu chúng ta còn các giáo xứ, các trường học, các chương trình giáo dục và xã hội, các hàng hoá và các nhà sách Công giáo, như thế truyền thống Công giáo vẫn sống tốt tươi và hưng phát.

Tuy nhiên, chủ nghĩa tiêu dùng Công giáo lại rất đối nghịch với truyền thống Công giáo đã được duy trì suốt 2000 năm qua. Chủ nghĩa này chất chứa tất cả những gì xấu xa nhất của Công giáo chủng tộc, Công giáo cơ chế, Công giáo phi Kinh Thánh và Công giáo không đòi hỏi, trong khi không thấm nhiễm đường lối tu đức cần được vĩnh viễn hóa. Chủ nghĩa Công giáo tiêu dùng là một loại sùng đạo không biết suy tư, chẳng sáng tạo và cũng chẳng cầu nguyện. Chủ nghĩa này hoạt động không hướng đích, lời nói rỗng tuếch, một vỏ sò hư ảo.

Hết chương hai

 

Công giáo không đòi hỏi

Hoàng Quý viết theo Lm. Richard Rohr

Bóng tối thứ năm của Công giáo được linh mục Richard Rohr trình bầy chính là Công giáo không đòi hỏi, không yêu sách. Thật vậy, truyền thống Công giáo tự nền tảng là một truyền thống mang nữ tính. Theo cái nhìn bên ngoài, Công giáo mang tính chất nữ giới hơn là nam giới. Chẳng hạn y phục giáo sĩ và các y phục phụng tự mang mầu sắc nữ tính. Chúng ta nhìn thấy các nam nhân mặc đồ lụa là và thêu thùa, rồi khi xuất hiện giữa công chúng nhiều giới chức cao cấp mặc những phẩm phục cầu kỳ và đội mũ kỳ lạ. Trong những công bố trịnh trọng về Giáo hội, người ta dùng đến tiếng Latinh gọi Giáo hội là Santa Mater Ecclesia, "Mẹ Giáo hội thánh thiện."

Nữ tính của Công giáo cũng được thể hiện bằng việc tôn sùng Đức Maria. Mẹ Maria không chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, nhưng còn là Mẹ Giáo hội. Đức Mẹ là nơi trú ẩn của những kẻ yếu đuối, là nơi yểm trợ mọi tín hữu. Một phân nửa các nhà thờ lớn tại Âu châu đều cúng hiến cho Đức Mẹ và tước hiệu của Đức Mẹ vẫn là Đức Bà của chúng ta. Đức Mẹ là biểu tượng vĩ đại nhất trong truyền thống Giáo hội, biểu tượng của chiều kích nữ tính nơi Thiên Chúa.

Dĩ nhiên Công giáo cũng có những yếu tố nam tính. Gạt bỏ sang một bên những hình thức bề ngoài như áo quần, phẩm phục, nam giới trong Giáo hội đã thảo ra các luật lệ. Như vậy người ta có thể nhận ra các khía cạnh nam tính và nữ tính của Công giáo tạo ra một thế quân bình trong Giáo hội, nhưng xét theo chiều kích lịch sử, nam tính đã trổi vượt trong các cơ cấu quyền bính của Giáo hội. Như chúng ta đã thấy trước đây, Giáo hội tổ chức theo lộ trình của nền văn hóa Tây phương, nổi bật với các vị giáo phụ và giáo sĩ. Còn khía cạnh Đông phương của Kitô giáo, tức khía cạnh mẫu tử và nữ tính, được duy trì chính yếu trong đường lối tu đức và phụng vụ trong Giáo hội. Nói một cách ngắn gọn hơn, nền luân lý Công giáo mang nặng tư chất nữ tính trong thái độ và cách cư xử.

Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử, chúng ta nhận thấy nữ tính của Kitô giáo rõ ràng nhất vào thời Trung Cổ. Dầu cho các cấu trúc bên ngoài của Giáo hội mang nam tính, nhưng đời sống bên trong của Giáo hội mang nhiều tư chất nữ tính. Nền tu đức thời Trung cổ được ghi dấu đặc biệt bằng việc tôn sùng Mẹ Maria, hay còn gọi là việc Tôn sùng Trinh Nữ.

Kitô giáo Trung cổ mang tư chất nữ tính trong thái độ đối với thế giới. Giáo hội ca ngợi cầu nguyện và chiêm niệm trong cac dòng tu và tu viện. Giáo hội thịnh hành với các tổ chức lễ lạt, khi tuyên bố trong các ngày lễ đạo đức, người dân quê không phải đi làm và vào những ngày linh thánh, quân đội cũng ngưng chiến. Giáo hội tạo ra nghệ thuật xây các vương cung thánh đường và khích lệ ca nhạc và kịch nghệ. Giáo hội đem vào phụng vụ mầu sắc và ánh sáng, hoa và nến, hương và rước kiệu. Giáo hội hòa trộn tôn giáo và văn hóa lại với nhau thành một tổng hợp trong nền Kitô giáo Trung cổ.

Dầu cho lối tổ chức quyền hành trong thời Trung cổ mang tư chất nam tính và giáo trưởng, nhưng các mối giây liên hệ của Giáo hội với trẻ em mang tính chất nữ tính và mẫu tử. Ngoại trừ các lạc giáo hoặc những phê bình thách thức quyền uy của hàng giáo sĩ và bị hình phạt nghiêm khắc, Giáo hội lại tỏ ra bao dung và tha thứ cho các tội nhân. Người ta có thể làm hầu như mọi thứ và thoát li, rồi cũng được khuyến khích hãy xưng tội và hứa không tái phạm. Và khi họ lại tái phạm, họ vẫn có thể luôn luôn đi xưng tội và Giáo hội, qua các linh mục lại tha thứ cho họ. Như vậy như chúng ta xác quyết ở trên, thái độ Công giáo đối với luân lý đúng là đặc trưng nữ tính.

Nền luân lý nữ tính không đặc trưng bằng những luật lệ gay gắt hay cách cư xử nghiêm ngặt, nhưng bằng các tình liên hệ linh động. Lý tưởng là dung nạp vào gia đình hơn là khai trừ như câu lạc bộ hoặc băng đảng. Trên hết, Giáo hội mong muốn hiệp nhất và chỉ đòi hỏi người ta tuân giữ những tiêu chuẩn hạnh kiểm tối thiểu để được duy trì trong cộng đoàn. Khi chúng ta nhìn vào phản ứng của Giáo hội quyết liệt với các nhóm lạc giáo một đàng, và đàng khác lại nhân hậu với các tội nhân, chúng ta có thể nhìn thấy nữ tính thật rõ ràng. Giáo hội đã dung thứ mọi thứ vô luân và đồi truỵ, nhưng khi cảm thấy sự hiệp nhất bị đe dọa, Giáo hội đã phản ứng bằng việc kết án nặng nề.

Bóng tối của nền luân lý nữ tính chính là sự không muốn đưa ra những đòi hỏi luân lý mạnh mẽ với các Kitô hữu. Giáo hội khuyến khích mọi người sống đạo hạnh và mời gọi sống thánh thiện,nhưng lại không nhấn mạnh đến nền luân lý đòi hỏi của Tin Mừng. Như một bà mẹ, Giáo hội luôn luôn mong muốn các con cái cư xử tốt lành, nhưng nếu chúng không sống như thế, Giáo hội cũng không loại trừ. Phần lớn Công giáo ít yêu sách, ít đòi hỏi. Trong cuốn sách trích dẫn câu chuyện lần trước, cuốn Children of Sanchez, Manuel chứng minh cho chúng ta mặt tối của lối bao bọc mẫu tử. Người ta có thể sống bất cứ cách nào người ta muốn và vẫn còn là Công giáo.

Không ai có thể tố cáo Công giáo là một tôn giáo hẹp hòi. Giáo hội ôm ấp cả các người thánh thiện lẫn các tội nhân, các người cấp tiến lẫn bảo thủ, các người theo chủ nghĩa cá nhân lẫn chủ nghĩa thực tiễn. Giáo hội bao dung những khác biệt, tuy nhiên đây cũng là mặt yếu của Giáo hội. Dầu cho Giáo hội có thể dễ dàng hình thành các cộng đoàn quy tụ được đủ mọi loại người, nhưng Giáo hội lại không tạo dựng được những nhóm tông đồ nền tảng. Giáo hội có thể bao dung những nhóm người như vậy - và có nhiều nhóm như thế - nhưng Giáo hội không hình thành được những nhóm nồng cốt và không kêu gọi toàn thể Giáo hội sống Tin Mừng một cách rốt ráo, nền tảng.

Có một số điều rất hấp dẫn về sống Tin Mừng một cách rốt ráo, về chấp nhận lời mời gọi của Chúa Kitô phải từ bỏ mọi thứ để đi theo Ngài. Chắc chắn ở đây Chúa Giêsu mong mỏi những ai lắng nghe Ngài, và đây là cách thức các môn đệ đầu tiên của Ngài đã đáp ứng. Khi chúng ta học hỏi về các vị sáng lập dòng hoặc khi những ai đã hoàn toàn hiến thân cho công việc của Nước Thiên Chúa, chúng ta phải thực tâm thán phục quý ngài. Chúng ta nhận ra Kitô giáo thực sự là thế đó, và lối sống này thực sự đẹp đẽ một cách say mê. Chúng ta biết chúng ta đang thiếu một cái gì đó thật tuyệt vời nếu chúng ta không quay cuộc sống trở về với Chúa Kitô, nhưng là những người Công giáo, chúng ta không nghe Giáo hội đòi hỏi chúng ta như thế.

Nếu bóng tối của nam tính Công giáo là chủ nghĩa toàn trị, thì bóng tối của nữ tính Công giáo là thái độ bao dung với lối sống tầm thường và tội lỗi. Ngay tại trình cấp cơ cấu, Giáo hội đã nhắm mắt làm ngơ với đồi truỵ, dung túng chiến tranh, sống với giả hình và chiều theo các chế độ quyết liệt chống đối Chúa Kitô - thường nhân danh bảo vệ hòa bình và hiệp nhất bằng mọi giá. Khi chúng ta đong đếm cái giá những đau khổ của nhân loại và bất trung với Tin Mừng, chúng ta dễ dàng kinh ngạc Giáo hội phải trả cái giá quá mắc.

Tuy nhiên khi chúng ta nhìn kỹ mặt khác, hẳn chúng ta phải suy nghĩ gấp đôi. Không một cơ cấu nào hoàn hảo cả. Mỗi một tập thể đều có mặt sáng và mặt tối. Nếu tinh thần Công giáo không đặc trưng là nữ tính, thỉ các cấu trúc và tâm lý của Công giáo hẳn hoàn toàn mang tính chất nam tính. Công giáo hoàn toàn là một Giáo hội giáo trưởng và đòi hỏi gắt gao, và vẻ nổi bật của nam tính được xoa dịu nhờ tư chất nữ tính.

Kỳ tới: Công giáo tiêu thụ

 

Công giáo phi Kinh Thánh (Unscriptural Catholicism)

Hoàng Quý viết theo Lm. Richard Rohr

Bóng tối thứ tư của Công giáo được linh mục trình bầy chính là Công giáo xa rời Kinh Thánh và chúng tôi tạm dịch là "Công giáo phi Kinh Thánh." Cụm từ này xem ra nặng nề, tuy nhiên, đi vào tìm hiểu lịch sử và thực tiễn, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của cụm từ này nhiều hơn.

Ngoại trừ một thiểu số, quả thực đa số các tín hữu Công giáo không phải là những người đọc Kinh Thánh nhiều. Cho tới ngày nay, nhiều tín hữu Công giáo vẫn không biết mở sách Tân Ước xem bài Tin Mừng Chúa Nhật nằm ở sách nào, đoạn nào và câu nào. Phần đông các tín hữu theo đạo dựa vào các bí tích và những lời giảng dậy của Giáo hội trong công việc đào tạo và sống đức tin.

Có hai nguyên do mang tính chất lịch sử cho thực trạng này. Lý do đầu tiên là Giáo hội đã tồn tại từ lâu trước bộ Kinh Thánh được hoàn thành, do đó Giáo hội sử dụng văn nói hơn là văn viết. Dù cho những người theo đạo đầu tiên đến từ Do Thái giáo đã chấp nhận Kinh Thánh theo tiếng Do Thái (chúng ta gọi là Cựu Ước) như là những Lời linh ứng của Thiên Chúa, nhưng vào cuối thế kỷ thứ nhất, phần đông những người theo đạo Công giáo lại là những người tà giáo, họ không biết gì về Do Thái giáo và các sách thánh cả. Ngay vào thế kỷ thứ hai và thứ ba đã xẩy ra các cuộc tranh luận trong Giáo hội xem có chấp nhận Kinh Thánh bằng tiếng Hêbrơ (Do Thái) là thuộc Giáo hội không.

Thêm vào đó, chúng ta cũng nên nhớ rằng, trong thế kỷ đầu tiên, các sách Tin Mừng và các Thư Tông đồ còn đang được viết ra. Những sách này từ nguồn gốc được viết ra cho các cộng đoàn đặc biệt, thí dụ Thư gửi tín hữu Galata, và dù cho đã được lưu hành rộng rãi trong Giáo hội vào thế kỷ thứ hai và thứ ba, nhưng vẫn chưa có danh sách của giáo quyền xác định những sách này được mọi Kitô hữu chấp nhận.

Mãi cho tới thế kỷ thứ tư, khi Kitô giáo thoát khỏi tình trạng bách hại và được phục hưng, các giám mục thuộc toàn cõi Đế quốc Roma đã tụ tập lại và quyết định một danh sách chính thức các Sách Thánh. Trong khi đó các tín hữu đã có thói quen nghe Lời Chúa Giêsu bằng văn nói trong khi tham dự các nghi thức bí tích hoặc nghe giảng vào mỗi lễ Chúa Nhật. Việc truyền tụng Lời Chúa bằng văn nói trong Giáo hội được củng cố thêm trước sự kiện các sách được viết bằng tay lúc đó quá tốn kém và không thuận tiện.

Lý do thứ hai khiến Công giáo không tùy thuộc mạnh mẽ vào văn viết vì vào thời Trung Cổ đa số dân chúng  châu là dân man rợ nên mù chữ. Như vậy chỉ có một số học giả hoặc các giáo sĩ biết đọc. Từ đó các tín hữu được dậy bảo về đức tin khi tham dự Thánh Lễ và các bí tích. Nếu có những tín hữu may mắn sống nơi thành thị, họ có thể đọc được các câu chuyện Kinh Thánh từ các kính mầu cửa sổ của các thánh đường hoặc tham dự những vở kịch về phép lạ trong những nơi công cộng.

Đôi khi anh em Tin Lành tố cáo Giáo hội Công giáo không đem Kinh Thánh đi vào đại chúng và đem nhốt Kinh Thánh trong các tu viện. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng để sản xuất được một cuốn kinh Thánh viết tay trong thời Trung Cổ phải chiếm hết 500 bản viết trên giấy da và 10.000 giờ lao động. Như vậy chúng ta hiểu được sách Kinh Thánh thật hoạ hiếm và còn phải canh giữ để khỏi bị ăn cắp. Việc in ấn sách vở chỉ được phát minh vào giữa thế kỷ thứ mười lăm.

Như vậy chúng ta dễ dàng hiểu được lý do tại sao Giáo hội Công giáo không phát triển được truyền thống khuyến khích các tín hữu đọc Kinh Thánh. Sau thời Cải Cách của anh em Tin lành, Giáo hội lại né trách để các tín hữu đọc Kinh Thánh vì bên Tin Lành sử dụng Kinh Thánh để biện giải giáo lý cũng như chống lại Roma. Thêm vào đó anh em Tin Lành có thể quảng diễn Kinh Thánh khác nhau, do đó như chúng ta thấy hiện nay có hàng trăm hàng ngàn các giáo phái Tin Lành khác nhau. Phải chăng đây là một niềm cay đắng đã đang và đang phân chia Kitô giáo?

Gạt bỏ sang một bên những lý do lịch sử như vừa rồi, chúng ta cũng phải nhìn nhận rất ít người Công giáo đọc Kinh Thánh hàng ngày, dầu cho ngày nay chúng ta có thể đọc được đủ mọi thứ. Các tín hữu Công giáo không tận dụng Kinh Thánh để tăng thêm những hiểu biết về truyền thống của đạo giáo hoặc đi sâu vào mối giây liên kết với Thiên Chúa. Đối với nhiều người Công giáo, Lời Chúa không thế giá bằng lời giáo huấn của giáo hoàng hay những lời chỉ dậy của giám mục hoặc linh mục. Xem ra Kinh Thánh chỉ trở thành quan trọng khi được các linh mục hậu thuẫn, thôi thúc. Và chắc chắn đây không phải là bộ mặt sáng của Công giáo.

Mặt tối của một số giáo phái Tin Lành là đôi khi sử dụng Kinh Thánh như một khí giới để biện minh cho thần học. Những người theo trào lưu chính thống (Fundamentalists) thường hãnh diện họ không tin vào thế giá của giáo hoàng và họ đã biến Kinh Thánh thành giáo hoàng giấy (paper pope). Trong lúc che đậy nhiều quảng diễn Kinh Thánh cá thể, nhiều nhà giảng thuyết có thể chọn lựa những mẩu hoặc đoạn Kinh Thánh để chứng minh một quan điểm hoặc công kích những ai phản đối. Đứng đàng sau uy thế của Kinh Thánh, họ cũng trở thành độc tài như giáo sĩ Roma.

Xét theo mặt sáng, anh em Tin Lành thường xuyên đọc Kinh Thánh để hướng lái cuộc sống đạo hàng ngày. Họ tham dự đều đặn các buổi học hỏi Kinh Thánh hàng tuần và suy niệm mỗi ngày để gia tăng hiểu biết và niềm tin. Họ rút ra từ Kinh Thánh những lời khuyên nhủ hoặc các bài học để sống thành một Kitô hữu tốt hơn. Họ tìm trong Kinh Thánh những bài học chỉ cách thức sống thành những cha mẹ thiện hảo, những người làm ăn lương thiện và những người hàng xóm thân thiện.

Sự khác biệt giữa anh em Tin Lành chuộng Kinh Thánh và Công giáo phi Kinh Thánh thể hiện khá rõ ràng trong những xứ sở theo truyền thống Công giáo khi anh em Tin Lành đặt chân đến truyền giáo những nơi này. Kitô giáo theo Kinh Thánh được họ rao giảng hoàn toàn trái ngược với Công giáo sắc tộc. Thí dụ như Mễ Tây Cơ là một xứ sở Công giáo từ thời người Tây Ban Nha xâm chiếm. Vào những năm 1950, anh em Tin Lành tại đây còn ít ỏi và một nhà nhân chủng học tên là Oscar Lewis đã sống giữa những người nghèo tại đây và ông đã viết một cuốn sách dựa vào lời kể lại về chính cuộc sống của người dân. Trong cuốn Children of Sanchez: Autobiography of a Mexican Family, ông kể về câu chuyện ông phỏng vấn một người trẻ tên là Manuel, một người Công giáo chính cống. Manuel mô tả lại hoàn cảnh của anh như sau:

Vâng, tôi đã bắt đầu phân tách các sự việc, có đúng không? Chúa Giêsu đã nói, "Giống như cây vả này, anh em nhìn hoa trái của chúng sẽ biết chúng." Trong các nhà giam tại Mễ Tây Cơ, trong một trăm tù nhân có tới chín mươi chín người là Công giáo! Và giả như các bạn tôi là những kẻ trộm cắp, họ cũng thắp ngọn đèn cầy kính một vị thánh trước khi ra đi hành nghề. Các nàng buôn bán dâm cũng giữ hình một đấng thánh trong phòng và đốt đèn cầy thánh để cầu xin thêm khách làng chơi đến. Nếu như quả thực những suy đồi đó tồn tại trong Công giáo, phải chăng đây là tôn giáo chân thật?

Tôi bắt đầu suy nghĩ về những người Evangelists, Adventists, Anglicans tôi biết. Tôi không nhìn thấy họ say sưa ngoài đường phố, không bao giờ sách giao hoặc hút thuốc, nghiện ngập ma tuý hoặc chửi thề. Nhà họ có đầy đủ những gì cần thiết, con cái họ mặc quần áo sạch sẽ và ăn uống đầy đủ, họ đối xử với vợ con thật tử tế. Họ sống một cuộc sống lành mạnh và an bình. Nhưng dưới Giáo hội Công giáo, người ta sống theo cách thức như tôi đã sống.

Tôi không đánh mất niềm tin. Tôi vẫn là người Công giáo vì tôi không cảm thấy mình có đủ sức mạnh để tuân thủ các giới răn và thi hành các luật lệ nghiêm chỉnh của anh em Evangelists. Tôi chẳng còn bao lâu để có thể hút sách, bài bạc hoặc gian dâm và như vậy tuyệt đối tôi chẳng có thể sống theo luật lệ của Thiên Chúa được.

Những lời của Manuel phác hoạ sống động những hậu quả thảm hại của một Công giáo sắc tộc, cơ chế và phi Kinh Thánh. Những ưu điểm của truyền thống Công giáo về việc thẩm định giá trị của tạo dựng giờ đây chúng ta nhìn thấy bóng tối phía sau. Thái độ lạc quan giúp chúng ta yêu đời có thể dẫn đến việc bỏ bê những giá trị Kitô giáo. Tầm nhìn bí tích về thế giới như một mặc khải của Thiên Chúa có thể dẫn đến việc đánh quên mất mặc khải của Ngài trong Kinh Thánh.

Công giáo phi Kinh Thánh có thể do hậu quả của Công giáo chủ bí tích (sacramental Catholicism). Trong suốt 15 thế kỷ, các bí tích đã tuyệt đối cần thiết đem các tín hữu đến với các nền tảng của Kitô giáo và theo nhiều cách thức các bí tích vẫn còn là chính yếu của đời sống Giáo hội. Như Kinh Thánh có thể bị sử dụng sai lạc, cũng có thể xẩy ra như vậy với các bí tích. Các bí tích có thể trở thành những nghi thức bề ngoài và như những chiếc máy ban ơn. Các bí tích trở thành phương tiện thay thế cho lối sống phù hợp với các sứ điệp của Kinh Thánh. Các bí tích cho con người có cảm giác sai lầm về sự an toàn giữ đạo để họ khỏi phải lo việc hoán cải con người thực sự. Các bí tích ru ngủ các tín hữu trong trạng thái êm đềm của phụng vụ hơn là dẫn dắt họ đi tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Trong một Giáo hội mà bí tích là chính yếu, thì các bài học về Kinh Thánh và các bài học về bí tích cũng thiết yếu như nhau, vì Kinh Thánh là trung tâm của việc thờ phượng phụng vụ. Chúng ta nhìn thấy điều này thể hiện rõ ràng trong Thánh lễ khi Kinh Thánh được đọc và được giảng nghĩa và là nơi việc cử hành thánh thể gợi nhớ lại Bữa Ăn Tối của Chúa Giêsu với các môn đệ. Cũng cùng một lời giáo huấn tông đồ dẫn đưa vào Tân Ước thì cũng dẫn đến việc thành lập các bí tích. Cũng thế, việc sùng đạo thuận lợi và an vui với việc chủ trương theo các nghi lễ và không quan tâm tới Lời Thiên Chúa, cả khi Kinh Thánh sẵn sàng trong tầm tay. Quả thực Công giáo phi Kinh Thánh không bị khiển trách do các bí tích nhưng do việc hiểu lầm và vận dụng sai lạc các bí tích.

 

Công giáo cơ chế (institutional Catholicism)

Hoàng Quý viết theo Lm. Richard Rohr

Bóng tối thứ ba của Công giáo được linh mục Rohr đề cập tới chính là đặc tính cơ chế trong Giáo hội. Mỗi một giáo xứ của chúng ta đã là một cơ cấu rồi, với ban quản trị và điều hành, với các chương trình và ngân sách, với các tòa nhà và đất đai. Các cơ cấu Công giáo được mở ra khá nhiều như các trường học, các chủng viện, các bệnh viện, các cơ quan xã hội, các tu viện và các nhà tĩnh tâm. Đường lối tổ chức Giáo hội khá chặt chẽ, từ Vatican cho tới các giáo phận, các dòng tu.

Kitô giáo đã phát triển các cơ cấu rất sớm trong lịch sử. Ngay từ thuở ban đầu, các tông đồ đã không thiết lập các chương trình hành động. Các ngài túa đi vội vã khỏi căn phòng trên lầu trong ngày Lễ Hiện Xuống và bắt đầu xuống đường đi rao giảng, công bố Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và mời gọi con người biến đổi. Quý ngài rửa tội cho các tín hữu tân tòng và thiết lập các cộng đoàn, hội họp nhau trong các gia đình và chia sẻ Bữa Ăn Tối của Chúa Giêsu, cầu nguyện trong các hội đường hoặc bất cứ nơi nào các tín hữu họp mặt nhau được. Những nhà thừa sai như Thánh Phaolô ra đi bốn phương loan báo Tin Mừng về Chúa Giêsu và Vương quốc của Ngài đang đến.

Các cộng đoàn phát triển thật nhịp nhàng và theo nhiều cấu trúc. Các Kitô hữu gặp nhau điều hòa vào mỗi Chúa Nhật để cử hành việc Chúa Sống Lại và cảm tạ Thiên Chúa vì đã gửi Chúa Giêsu đến với trần gian. Các tín hữu nam nữ được chỉ định lo cho người nghèo khổ, những ai góa bụa và những kẻ mồ côi. Các vị cao niên được lựa chọn để coi sóc các cộng đoàn địa phương, xướng xuất các buổi thờ phượng và duy trì những lời giảng dậy của các tông đồ. Chúng ta có thể đọc được các công việc phát triển này trong Tân Ước, trong Công Vụ các Tông Đồ, và trong nhiều Thư Tông đồ. Giáo hội cơ chế hóa những gì cần thiết phải làm để phục vụ nhu cầu của các cộng đoàn và đem Tin Mừng đến với thế giới.

Công việc thiết lập đời sống cộng đoàn và các hoạt động truyền giáo đã thành công trong việc hoán đổi toàn Đế Quốc Roma theo Kitô giáo. Khi Đế Quốc Roma rơi vào tay các cuộc xâm chiếm của các dân man rợ, lúc đó các cơ chế chính quyền tiêu tan. Chỉ còn lại các cơ chế của Giáo hội tồn tại như các giáo xứ, các giáo phận và các tu viện. Các cơ cấu này, ngoài việc duy trì được các sứ điệp Tin Mừng và truyền thống Do Thái-Kitô giáo, còn duy trì được cả những văn minh Roma và văn hóa Tây phương. Giáo hội đã văn minh hoá và Kitô hoá các bộ lạc man rợ của Âu châu qua các cơ chế và dần dần một nền văn hóa mới khai sinh vào thời Trung Cổ của Kitô giáo.

Tuy nhiên công việc cơ cấu hóa cũng có những mặt tiêu cực. Các cơ cấu có đời sống cho riêng mình. Các cơ cấu tự vĩnh viễn hóa chính mình và rất khó thay đổi. Người ta đã thiết lập các cấu trúc vững mạnh hơn là các cá nhân trong đó. Đây là điểm mạnh và đồng thời cũng là điểm yếu. Một mặt sáng vẫn có luôn mặt tối phía sau.

Chúng ta đã biết các cơ cấu của Công Giáo Roma là cơ cấu của Tây phương. Cơ chế đó thật phẩm trật và thống trị. Các cơ chế đó được tổ chức theo kim tự tháp. Các lệnh ban xuống từ chóp đỉnh, rồi đi qua các tầng lớp cho tới khi đụng tới đáy. Xã hội được phân chia thành các tầng lớp lãnh đạo và các tầng lớp thứ dân, các giáo chức và các học sinh. Xã hội của Giáo hội cũng được phân bố thành các chủ chiên và các con chiên, hàng giáo sĩ và giáo dân.

Sức mạnh của cơ cấu kiến trúc này là khả năng thiết lập và duy trì được các cộng đoàn và các tổ chức. Khi dân chúng kính trọng uy quyền, họ muốn quy phục những nguyện vọng cá nhân của họ cho lợi ích của toàn thể. Và còn hơn thế, các tín hữu trong các cơ chế tôn giáo còn quy phục trí óc và sáng kiến của họ theo ý muốn của những ai đứng đầu bậc thang hàng giáo phẩm và họ trở thành những người thụ động và không quyền lực. Họ không làm gì nữa ngoại trừ những việc bảo phải làm. Họ nhường cho người khác suy nghĩ thay họ. Họ hài lòng với lối sống bình thường thay vì phải cố gắng đạt được những gì thiện hảo hơn.

Có chỗ đứng cho việc lãnh đạo trong Giáo hội. Chúng ta nhớ lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu tiên báo cho Phêrô rằng ông sẽ chối Ngài, và Ngài nhắn nhủ ông sau đó: "Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh" (Lc 22:31-32).

Vai trò lãnh đạo trong Giáo hội chính là làm vững mạnh các phần tử trong Giáo hội. Tuy nhiên trong quá khứ, các nhà lãnh đạo trong Giáo hội đã làm suy yếu các tín hữu. Các ngài đã đồng hóa niềm tin của mình vào niềm tin của cơ chế và bảo các tín hữu chỉ việc thi hành những gì cơ chế bảo phải làm, đó là cầu nguyện, góp tiền và vâng phục. Các tín hữu vâng phục nhưng họ chẳng phát triển gì cho niềm tin của mình trưởng thành thêm.

Đó là nhược điểm của một cơ chế hùng mạnh. Giáo hội đã duy trì và vĩnh viễn hóa chính mình theo cách thức toàn trị vững mạnh như thế, trong lúc gây cho các tín hữu một cảm nhận về sức hùng mạnh nơi kích thước, nơi con số to lớn và thể chế vững vàng của Giáo hội. Và như vậy Giáo hội đã không cống hiến cho các tín hữu sức mạnh tâm linh. Giáo hội không mời các tín hữu đi vào cảm nghiệm sống với Thiên Chúa, cũng chẳng giúp họ đi vào cuộc sống thân tình với Chúa Giêsu. Giáo hội cũng chẳng đòi hỏi các tín hữu trở thành các môn đệ của Chúa Giêsu, thành những người đi theo Tin Mừng, nhưng chỉ là những người đi theo các giáo sĩ. Giáo hội cũng chẳng đem đến cho họ một nền đạo đức đi xa hơn việc chỉ giữ các Giới Răn và xa tránh những chuyện tình dục tội lỗi. Giáo hội cũng chẳng nhắc nhở các tín hữu phải nhận lấy trách nhiệm trước những quyết định luân lý của chính mình và trách nhiệm phải uốn nắn xã hội đi vào Vương quốc Nước Trời. Dưới quyền thống lãnh cha chú này, phần đông niềm tin tôn giáo của người Công giáo và lương tâm luân lý của họ ở trong trạng thái ấu trĩ, thụ động.

Kết quả như ngày nay chúng ta đang nhìn thấy cơn khủng hoảng đức tin và luân lý trong Giáo hội. Hàng giáo sĩ vẫn theo lối độc tài bảo các tín hữu điều gì phải tin và phải cư xử thế nào, nhưng nhiều người Công giáo chống cự lại. Có khi vì các tín hữu học thức hơn và tin rằng họ phải có đóng góp phần nào trong các quyết định trong Giáo hội, nhưng các quyết định này lại đến từ linh mục quản nhiệm, từ vị chưởng ấn hay từ Vatican. Có khi, dù cho họ muốn hàng giáo sĩ bảo họ phải làm gì, nhưng hàng giáo sĩ lại không nói những gì họ muốn nghe. Trong cả hai trường hợp, họ cảm thấy mình bị xa tránh, bị bỏ rơi, bị chọc giận. Cơn khủng hoảng này cũng là cơn khủng hoảng uy quyền.

Có vị trí cho uy quyền trong Giáo hội. Một đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu vẫn được coi là thân thương với các tín hữu Công giáo vì xác quyết niềm tin vào uy quyền của Phêrô. Sau khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Ngài quay lại phía Phêrô và công bố: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" (Mt 16:17-18).

Vai trò của uy quyền trong Giáo hội trở thành nền móng cho việc thiết lập một cộng đoàn. Giáo hội trở thành nền tảng nối kết giữa việc các tín hữu di động vào trần giới với lời bảo đảm của Chúa Giêsu rằng không gì có thể chống lại việc loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói rằng Phêrô là Giáo hội, nhưng ông chỉ là người đem đến hiệp nhất và vững chắc cho Giáo hội. Tuy nhiên, trong quá khứ Giáo hội đã đồng hóa với giáo hoàng và hàng giáo phẩm. Hàng giáo phẩm đã làm mọi chuyện trong Giáo hội và các tín hữu chẳng làm gì hết. Họ thụ động và suy yếu. Hàng giáo sĩ đảm trách uy quyền trong Giáo hội và để các tín hữu trở thành vô lực.

Một lần nữa chúng ta nhìn thấy hậu quả là cơn khủng hoảng uy quyền trong Giáo hội. Trước đây hàng giáo sĩ làm hết mọi chuyện, nhưng ngày nay khi thiếu các linh mục coi sóc các xứ đạo và các bệnh viện, nhiều tín hữu cảm thấy mình bị bỏ rơi và lạc lõng. Trước đây hàng giáo sĩ xem ra hoàn hảo, nhưng ngày nay dân chúng biết được rằng có một số linh mục uống rượu say sưa, lạm dụng tình dục và ham mê tiền của, nhiều tín hữu cảm thấy mình như bị lừa đảo và tức giận. Họ đã đặt hàng giáo sĩ lên bệ thờ quá lâu rồi đến nỗi họ không còn biết phải làm gì khi họ phát giác ra các linh mục cũng chỉ là những con người phàm tục như họ. Họ đã được quản trị mục vụ quá lâu rồi đến nỗi họ không còn biết phải thi hành mục vụ với nhau thế nào. Cơn khủng hoảng này là cơn khủng hoảng mục vụ.

Sau cùng, cơn khủng hoảng uy quyền trong Giáo hội đang trở thành cơn khủng hoảng uy quyền của Giáo hội. Giáo hội như một cộng đoàn các môn đệ được mời gọi trở thành sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới, ánh sáng chiếu trên đồi, ngọn đèn thắp sáng giữa màn đêm. Tuy nhiên, khi uy quyền trong Giáo hội bị giới hạn chỉ dành cho hàng giáo sĩ, uy quyền của toàn thể các tín hữu trong thế giới trở thành giảm thiểu. Giáo hoàng và các giám mục nói, thế giới ngoài Công giáo không cần lắng nghe, vì hàng giáo phẩm chỉ là thiểu số ít ỏi. Ngay cả đến người Công giáo cũng thường không lắng nghe, hoặc vì họ đồng ý và nghĩ rằng khi hàng giáo phẩm nói, họ có thể thụ động chẳng phải làm gì, hoặc họ bất đồng và nhận ra rằng hàng giáo phẩm cũng chẳng thể ép buộc họ.

Khi uy quyền trong Giáo hội được cơ chế hóa theo cách thức thời Đế quốc Roma, Giáo hội tạo được lợi điểm là vững bền và lâu dài, nhưng đồng thời phạm phải một yếu điểm là tập trung vào một số người ưu tú điều khiển. Bao lâu quần chúng không có quyền hành gì, lúc đó sức mạnh nằm trong tay hàng Giáo sĩ hành động nhân danh họ. Các cơ chế Giáo hội được điều động do các linh mục hoặc các tu sĩ, thường phục vụ các nhu cầu của những người nghèo khổ và tật bệnh, những ngưởi vô gia cư và thất học. Nhưng quyền lực theo hình kim tự tháp từ trên xuống dưới cũng đã cơ chế hóa tính thụ động nơi các tín hữu trong mục vụ của hàng giáo sĩ. Như vậy mặt sáng của Giáo hội đã chứa chấp mặt tối ngay phía sau rồi.

Ngày nay chúng ta thấy mặt tối trong khuynh hướng Công giáo muốn đồng hóa Giáo hội với các cơ chế, hoặc ngay với hàng giáo sĩ. Người Công giáo không nghĩ mình như một Giáo hội. Họ không nghe những lời Chúa như đang nói với họ, nhưng nói với các linh mục và các tu sĩ. Họ không đảm trách nhiệm vụ nào trong sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới, nhưng thay vào đó, họ phó mặc cho các cơ chế Giáo hội mỗi ngày mỗi trở thành vô lực. Phải chăng đây không là nguyên nhân gây ra những suy yếu trầm trọng trong Giáo hội hiện nay?

Kỳ tới: Công giáo phi Kinh Thánh (Unscriptural Catholicism).

Thursday, June 30, 2005

 

Duc John Paul II Posted by Hello

Friday, June 24, 2005

 

TOÀN CẦU HÓA: VẬN MAY VÀ THÁCH THỨC.

TRẦN DUY NHIÊN
Dựa theo tài liệu ‘Maitriser la mondialisation’
của Ủy Ban ‘Công Lý và Hòa Bình’ - Pháp

Trong những thập niên cuối thế kỷ 20, tại Việt Nam, các thuật ngữ ‘hiện đại hóa’ ‘công nghiệp hóa’ được sử dụng thường xuyên trong xã hội, và các thuật ngữ ‘hội nhập văn hóa’ ‘phúc âm hóa’ xuất hiện thường xuyên trong môi trường Giáo Hội Công Giáo. Bước vào thế kỷ 21, tất cả những thuật ngữ ấy đã bị bao trùm bởi một thuật ngữ khác: ‘toàn cầu hóa’.

Trên thế giới, thuật ngữ này, hay đúng hơn thuật ngữ ‘globalization’ hoặc ‘mondialisation’, đã được sử dụng tràn lan từ hơn một thập niên qua. Mai này, chúng ta sẽ gặp nhan nhản trong mọi lãnh vực, và một câu hỏi sẽ được đặt ra: ‘Toàn cầu hóa’ là gì?

I - TOÀN CẦU HÓA LÀ GÌ?

Đấy là việc xâm nhập của cả thế giới vào mọi lãnh vực trong đời sống chúng ta. Toàn thể thế giới hiện diện khắp nơi bên ngoài và bên trong chúng ta, và thay đổi mọi cột mốc quen thuộc trong đời sống xã hội và nội tâm của chúng ta.
Thử nhìn lại một vài hiện tượng:


Một chiếc gắn máy Super Dream mang công nghệ Nhật Bản, dáng kiểu Thái Lan, động cơ sản xuất tại Hàn Quốc, được ráp tại Việt nam cùng với một số bộ phận sản xuất tại quê nhà, rồi được bán tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.

Trước màn ảnh truyền hình, cả thế giới đang diễn ra trong phòng khách chúng ta, từ một tai nạn xe ở Nghệ An, đến cuộc tranh chấp tại Đông Timor, đi ngang qua một trận bóng đá tại Anh và một Đại Hội Điện Ảnh ở Pháp. Và nếu muốn, chúng ta sẽ vào văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Mỹ nghe những đại diện thế giới tranh luận hoặc xuống Nam Phi xem ngài Mendela cắt băng khánh thành cho một bệnh viện mới. Tất cả mọi biến cố tại mọi nơi trên thế giới đều có thể đến cùng một lúc, mặc cho khoảng cách không gian và thời gian.

Những đồng tiền mạnh có thể hoán chuyển lẫn nhau và việc chuyển ngân không còn bị đánh thuế. Chỉ có một thị trường chứng khoán bảo đảm cho cả thế giới giá trị của đồng tiền của từng cá nhân. Mỗi người có thể sử dụng tiền mình ở khắp mọi nơi và mua sắm bất cứ điều gì trên thế giới.

Mặc dù mỗi quốc gia còn giữ ngôn ngữ của mình, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Con người ngày nay muốn sống cập nhật, thì ngoài tiếng mẹ đẻ, cần phải nắm vững hai hay ba ngoại ngữ. Ấy là chưa nói đến một ngôn ngữ mới mà trong vòng 10 năm nữa, mọi thanh niên nam nữ sau trung học sẽ phải làm chủ, đó là ngôn ngữ vi tính, ví dụ như ngôn ngữ ‘windows’.

Một hiện tượng khác tác động trên đời sống con người, đó là việc các ngành kinh doanh nhiều vốn như ngành xe hơi, hàng không, ngân hàng, đang họp lai với nhau ở tầm cỡ thế giới . Một số cơ sở trong nước liên kết với nhau để biến thành các nhóm toàn cầu. Một số nhãn hiệu muốn có mặt khắp nơi trên thế giới như Sony, Microsoft, Coca Cola.

Một hệ thống luật pháp quốc tế đang hình thành và phủ lên bộ luật của từng quốc gia. Nhiều hiệp ước quốc tế đã được ký kết hầu tạo nên một vùng pháp lý cho toàn thể nhân loại.

Các quốc gia dần dần kết lại với nhau thành khối. Ngoài Liên Hiệp Quốc, mang tính chất biểu trưng hơn là thực sự hiệu quả, thì ở Âu Châu có EU (European Union) , ở Đông Á có ASEAN (Association of South East Asian Nations) , ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương có APEC (Asia Pacific Economic Cooperation) ở Trung Đông có OPEC (Organization of the Petroleum Exporting Countries) , ở Châu Phi có OUA (Organisation de l’Unité Africaine) , trong khi đó ở Bắc Mỹ khởi sự thành lập tổ chức ALENA (Alliance pour le Libre-Echange Nord Américain) và Nam Mỹ cũng muốn bước theo với Hiệp Ước Andin. Điểm khởi đầu của việc liên kết này là quyền lợi kinh tế. Nhưng đồng thời cũng do tác động của việc toàn cầu hóa: từng nước một đứng riêng lẽ sẽ dễ dàng bị những khối toàn cầu nuốt chững.


Tất cả những hiện tượng đó được gọi là hiện tượng ‘toàn cầu hoá’. Những hiện tượng đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến mọi người và mọi nơi trên trái đất. Nó làm cho xã hội con người ý thức hơn về các vấn đề chung của nhân loại và của từng người.

II. ĐIỂM XUẤT PHÁT.

Việc toàn cầu hóa này xuất phát từ sự gặp gỡ và tác động qua lại giữa ba yếu tố sau:

1. cuộc cách mạng tin học,

2. sự tăng trưởng của các công ty lớn,

3. khuynh hướng của Hoa Kỳ luôn muốn là cường quốc bá chủ thế giới.

Hoạt động tương tác giữa ba nhân tố ấy đã dần dần thay đổi bộ mặt thế giới, và sự thay đổi đó chưa dừng lại khi thế kỷ 20 kết thúc.


Cuộc cách mạng tin học cho phép xử lý những khối thông tin thật lớn với giá cả càng ngày càng hạ. Nó giúp đưa thông tin về mọi lãnh vực đến khắp nơi trên thế giới với tốc độ ánh sáng. Thiếu nó, thì tình trạng toàn cầu hóa không thể đạt đến kết quả như ngày hôm nay. Tuy nhiên nó đã khởi sự từ thập niên 50 và phải chờ đến khi các thị trường mở cửa trên khắp thế giới thì bước phát triển mới trở nên chóng mặt. [1]

Từ năm 1945, Hoa kỳ đã trở thành ‘chủ nhân ông’ và tay ‘sen đầm quốc tế’, vì chiến tranh thứ II đã phá hủy mọi nước Châu Âu trong khi đó các nhà máy ở Mỹ bình chân như vại và ăn nên làm ra nhờ khách hàng Châu Âu đang mua vật tư và thiết bị để xây dựng lại đất nước mình. 30 năm sau, “ông chủ” ấy bị hụt hẫng với biến cố 1975 tại Việt Nam. Thế là “ông” chuyển từ sen đầm bằng vũ lực sang làm sen đầm bằng kinh tế.

Hoa Kỳ quyết định phá các hàng rào thuế (khởi sự từ trong nước) để tạo ra một thương trường ‘tự do’ và qua đó dành lại ưu thế đã mất của mình bằng phương tiện kinh tế. Lý do dễ hiểu là những công ty doanh nghiệp lớn nhất thế giới cũng như những tổ chức tài chánh đều là của Mỹ, và người hưởng lợi nhuận đầu tiên của chính sách phá hàng rào quan thuế chính là Hoa Kỳ. Điều này có thể giải quyết được nạn thất nghiệp trong nước và tài trợ cho công nghệ chiến tranh, mà cuối cùng, người thu lợi lại là những công ty Mỹ. Nếu không có quyết định mang tính kinh tế này của Hoa Kỳ, thế giới hẳn cũng tiến lên tình trạng toàn cầu hóa, nhưng có lẽ chậm hơn nhiều.

Cuộc cách mạng tin học và tham vọng của Hoa Kỳ hẳn sẽ không có được một kết quả như hiện nay nếu thiếu sự góp sức của thế giới tài chánh và kinh tế. Và thế giới này trở nên tác nhân chính cho việc toàn cầu hóa. Trong những năm 70, cuộc tái thiết Âu Châu đã hoàn tất, thế là Mỹ mất thị trường. Châu Âu bắt đầu sản xuất nhưng lại thiếu thị trường. Trên bình diện chính trị và ý thức hệ, các cuộc cách mạng xảy ra khắp nơi trên thế giới thứ ba, người Mỹ sa lầy tại Việt Nam... Trong bối cảnh đó, nhiều tổ chức đa quốc gia đã làm áp lực với Tổng Thống Mỹ để đưa ra biện pháp xóa bỏ hàng rào quan thuế, đó là cách thức để mở rộng thị trường. Các công ty lớn ở Tây Phương và Á châu bước theo con đường ấy. Cái qui luật cạnh tranh vì lợi nhuận của các công ty và các ngân hàng có được điều kiện để xâm nhập mọi quốc gia trên thế giới và tung hoành theo ý muốn của mình. Có thể là việc toàn cầu hóa chỉ khép kín trong thế giới tư bản nếu không hưởng được hai biến cố bất ngờ nhưng rất quan trọng, vào đầu thập niên 80: sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ở Liên Xô và sự tham gia vào nền kinh tế thị trường của Trung Quốc. Hai biến cố này đã cho phép bàn tay toàn cầu hóa chạm đến khắp hành tinh. Và kể từ đó, thuật ngữ ‘toàn cầu hóa’ đã mang trọn ý nghĩa.

Như thế, việc toàn cầu hóa là việc phát triển đến khắp nơi trên địa cầu phương thức kinh tế thị trường và vâng theo qui luật doanh thương của các nhà tài phiệt thông qua cuộc cách mạng tin học. Toàn cầu hóa vừa là phương tiện vừa là kết quả của sự lèo lái của Hoa Kỳ.

III. HỆ QUẢ CỦA VIỆC TOÀN CẦU HÓA.


1. Hệ quả của việc toàn cầu hóa kinh doanh.

Từ năm 1980 đến năm 1996, vốn đầu tư trong các nước Phương Tây chỉ tăng gấp đôi, trong khi đó vốn đầu tư ở nước ngoài tăng lên gấp 6 lần. Đây không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên. Các công ty chiều theo cái qui luật kinh doanh là hướng về lợi nhuận, một qui luật mà nếu công ty nào không tuân theo thì sẽ bị triệt tiêu. Việc toàn cầu hóa đã buộc mọi quốc gia trên thế giới áp dụng qui luật này. Mọi thứ đều được đánh giá theo lợi nhuận, các quốc gia lẫn con người. Một quốc gia ‘tốt’ là một quốc gia mà ta kiếm lợi nhuận thật nhanh. Một chính phủ ‘tốt’ là một chính phủ giữ vững giá trị đồng tiền của mình, giữ vững an toàn cho quyền lợi của người đầu tư, sẵn sàng đầu tư vào việc đào tạo (chứ không cần phải giáo dục) và mua sắm thiết bị. Một lực lượng lao động ‘tốt’ là một lực lượng có khả năng chuyên môn cao, chịu làm việc nhiều và không hề đòi hỏi gì về lương bỗng. Và dần dần, cả thế giới cho rằng đó là qui luật duy nhất để tồn tại và phát triển.

Ta thấy rõ rằng qui luật ấy, nếu áp dụng triệt để, chỉ có thể làm cho kẻ mạnh ngày càng mạnh hơn và làm cho kẻ yếu ngày càng yếu hơn [2]. Hố ngăn cách trong xã hội ngày nay được đào sâu và mở rộng hơn. Điều này đã thay đổi quan niệm về các quốc gia trên thế giới. Trước đây, ta có những nước giàu và những nước nghèo. Trong nước giàu, mọi người đều có công ăn việc làm, thu nhập cao, sống thoải mái. Trong nước nghèo, mọi người đều khổ vì thiếu thốn mọi sự. Hiện nay trong mọi quốc gia đều có hố phân cách giữa người giàu và người nghèo, bất luận đó là một quốc gia phát triển hay một quốc gia chậm tiến [3].


Cái qui luật kinh doanh tàn nhẫn ấy dần dần biến con người thành một phương tiện sản xuất trong khi làm việc, và thành một đơn vị tiêu thụ ngoài giờ làm việc. Phẩm giá của con người được đo lường bằng khả năng mua sắm của họ. Tinh thần lợi nhuận bao trùm mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, tâm linh... Con người trên khắp hành tinh dần dần bắt đầu mọi sự với câu hỏi: “làm bài thơ này, sáng tác bản nhạc này, (thậm chí) làm việc nhân đạo này thì có lợi gì?” hoặc “Sống đức tin, đi tĩnh tâm thì có lợi gì?”. Trước một não trạng ‘kinh tế’ như thế thì làm sao giữ vững điều tốt (sản xuất nhiều của cải) mà không mang luôn cái xấu (tha hóa con người nói chung, và làm nghèo một bộ phận nhân loại nói riêng)?

2. Hệ quả của việc toàn cầu hóa thông tin.

Một trong những hệ quả ít người để ý đó là mỗi người sẽ có khả năng tạo ra một thế giới theo chiều kích của riêng mình. Cách đây 50 năm, một thanh niên muốn định hướng cuộc đời thì hẳn có quyền chọn lựa, nhưng sự chọn lựa ấy rất giới hạn. Anh ta có thể theo Cách Mạng, để chọn lý tưởng ‘mac-xit’ và hiến dâng đời mình cho quốc gia dân tộc. Anh ta có thể chọn lựa theo ‘phe tư bản’, để cố làm giàu cho nhanh và ‘sống chết mặc bay’. Anh ta có thể chọn lựa sống ‘hiện sinh’ và chẳng thắc mắc gì đến ngày mai. Anh ta có thể chọn lựa sống theo một tôn giáo và tuân giữ lời dạy của giáo chủ.

Mỗi chọn lựa này kéo theo sự chấp nhận toàn bộ hệ thống ý thức hệ và một quan điểm hay một thế giới quan đã lập sẵn, Chỉ cần phủ nhận một điểm trong hệ thống ấy là anh không còn đất để mà sống: ví dụ một người Cộng Sản phủ nhận bản chất sáng suốt tuyệt đối của Đảng, hay một người Công Giáo phủ nhận giá trị của một bí tích trong Giáo Hội. Thời bấy giờ, người ta sống với một khuôn mẫu ý thức hệ hoàn chỉnh, hễ theo bước đầu thì phải đi đến cuối. Và những khuôn mẫu đó được các cơ chế đề ra: Chính phủ, Giáo hội, Học Đường, và các đảng phái chính trị có tổ chức. Chỉ có các cơ chế đó mới có quyền thêm bớt vào bản ‘giáo điều’ và theo dõi việc thực thi các ‘giáo điều’ đó.

Tình trạng này đã kéo dài thật lâu trong lịch sử nhân loại. Từ hệ chủ nô, hệ phong kiến, hệ tư bản, đến hệ xã hội chủ nghĩa, đấy là chưa nói đến một số nhà độc tài, bạo chúa đã đẻ ra những hệ thống xã hội phù du, nhưng để lại những hậu quả tai hại, như hệ Phát Xít chẳng hạn.

Việc toàn cầu hóa kinh doanh đã biến mọi sự thành hàng hóa, và hiện nay con người được đối diện toàn bộ hàng hóa ‘ý thức hệ’, họ có thể tự do vào Internet để đọc Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Kinh Lăng Nghiêm của Đức Phật, Tư Bản Luận của Các-Mác, Tal-mud của Do Thái Giáo, Tổng Luận Thần Học của Tôma Aquinô, và chọn một thế giới tư tưởng và một lối nhìn cho riêng mình mà không ai có thể và có quyền xâm phạm. Và trong lãnh vực hàng hoá này, ta có thượng vàng hạ cám. Đức Giêsu được đặt cùng ‘website’ với Nietzche, bản Giao Hưởng số 9 của Beethoven được đặt cạnh với bản nhạc Rap thuộc top ten trong tuần qua, tác phẩm Mona Lisa của Leonard de Vinci được trưng bày ngang hàng với bức Guernica của Pablo Picasso hay một bức họa cỗ Ai cập. Không có một ai đứng ra chỉ bảo cho người sử dụng phải theo chiều hướng nào, chỉ có bản ‘help’ và ‘wizard’ hướng dẫn cho người tham khảo thực hiện điều họ muốn mà thôi, và chính người ấy tự thiết lập (ngôn ngữ vi tính: customize ) ý thức hệ của mình.

Dần dần sẽ hình thành một ‘xã hội những con người riêng lẻ’, chỉ gắn với nhau qua liên hệ cung cầu và lợi nhuận. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện những con người tương đối hóa mọi sự. Không còn gì là duy nhất đúng. Không còn cái phân chia nhị nguyên: ‘Tất cả những gì của phía bên này thì trắng, do đó tất cả những gì của phía bên kia thì đen’. Không còn một tổ chức nào là đáp ứng nguyện vọng suốt đời của mình. Số người sống chết cho một hệ ý thức ngày càng ít đi và số người hợp nhau từng giai đoạn lại gia tăng. Những hiệp hội được thành lập dưới mọi hình thức và người ta có thể gia nhập vào một giai đoạn nào đó để duy trì hay củng cố ‘cái lợi’ của mình. Họ cùng chung lưng đối cật trong một thời gian ngắn để 'đình công’ hoặc để tổ chức một ‘chương trình văn nghệ Tết’, hoặc trong một thời gian dài hơn để ‘giải phóng dân tộc’, rồi sau đó mỗi người đến với những nhóm khác. Những thể chế lâu đời vẫn còn đó và còn giá trị, nhưng ai cũng có quyền sống theo thế giới của mình. Thể chế hôn nhân chẳng hạn. Pháp luật mọi nơi trên thế giới, và đạo đức truyền thống ở rất nhiều nơi, vẫn tôn trọng hôn nhân, nhưng thực tế trên các nước phát triển cho thấy rằng hơn 50% các cặp vợ chồng sống với nhau bất chấp hôn nhân và thoải mái chia tay nhau khi thấy không còn ‘có lợi’ nữa.

Ngoài ra, những tiến bộ về liên lạc viễn thông đã thay đổi quan niệm về không gian. Từ trước đến nay, con người luôn luôn hiện diện cùng lúc với hình hài mình. Mình không thể hiện diện trong một buổi họp với người khác mà đồng thời vẫn ngồi trong phòng làm việc tại nhà. Hiện nay, những ‘chat room’ hay ‘video/voice conference’ trên Internet đã cho phép một người ngồi tại nhà mình ở Việt Nam, không cần mất một giây di chuyển, cũng có thể hiện diện để họp với một người ở Úc, một người ở Mỹ, ở Canada, ở Pháp, ở Nhật Bản... Ngoài ra, người ấy có thể mở nhiều ‘conference’ cùng một lúc và hiện diện ở nhiều buổi họp trong cùng một thời điểm: mọi lời phát biểu đều được ghi lại nguyên văn và người họp có thể trở lại lúc nào tùy ý, kể cả trong lúc đang họp. Khái niệm về ‘người lân cận’ đã thay đổi.

Người gần tôi nhất có thể không phải là người cư ngụ sát vách của tôi, mà là người đối tác trong công việc hôm nay hay người bạn cùng chung sở thích với tôi về một bản nhạc, và người ấy có thể ở tận Hà Nội hay Tokyo. Một người đến trước nhà tôi xin tiền, tôi thấy xa lạ hơn là một người vừa bị cơn lụt ở Huế quét sạch căn nhà lá của mình, vì truyền hình cho tôi thấy rõ cảnh tàn khốc kia, trong khi đó quá nhiều người từng bị lừa bởi những người (vờ) đau khổ đứng trước mặt. Mặt khác, tôi có thể xây dựng một cộng đoàn với những người ‘đồng đội’ của tôi trên một lãnh vực nào đó, và sống với cộng đoàn ấy trước máy vi tính mà hoàn toàn dửng dưng với những con người hay những biến cố chung quanh tôi.

Trong bối cảnh này, thay vì nhận toàn bộ một ý thức hệ đã lập sẵn và một nền văn hóa do môi trường sống của mình xác định, mỗi người có thể có nhiều khả năng chọn lựa hơn, từ những nhãn hiệu các sản phẩm vật chất thường dùng đến những bước đi trên con đường tâm linh. Thay vì lệ thuộc môi trường xung quanh với những người mình không thể không gặp mặt, tôi có thể đi vào một xã hội chỉ hiện diện những người tôi ưa thích. Con người dễ dàng chấp nhận một lối sống khác mình, họ trở nên cởi mở hơn và bớt tuyệt đối hóa mọi sự. Tuy nhiên, mọi xã hội đều được xác định bằng một nền văn hóa khiến cho các thành viên của mình liên đới với nhau và có thể cùng thực hiện một mục đích chung, thế thì trong tương lai xã hội sẽ như thế nào nếu mỗi người đi theo con đường riêng của mình? Phải chăng ta sẽ thấy xuất hiện nguy cơ là từng người sẽ đóng khung trong thế giới của riêng mình và chỉ tiếp xúc với người khác qua quan hệ cung cầu mà thôi?

Trong một nền kinh tế thị trường thì con người có thể sống được và hy vọng sống thoải mái hơn trước (có chắc hạnh phúc hơn không? Vì, ít ra là đối với nền văn hóa Việt Nam, hạnh phúc được đặt nền tảng trên những giá trị tinh thần nhiều hơn là trên những giá trị vật chất), nhưng trong một xã hội thị trường , thì liệu con người còn có thể sống một cuộc đời đáng sống chăng? Nếu việc tự do chọn lựa khiến cho con người không còn khả năng giao tiếp và liên hệ với nhau nhưng chỉ nói chuyện được với máy (ta có thể suốt đời yêu nhau trên máy không nhỉ?) thì đấy là một sự thụt lùi thay vì tiến bộ [4].

IV - GIÁO HỘI NGHĨ GÌ?

Trên đây là hai trong số nhiều hệ quả mà việc toàn cầu hóa khiến cho mọi giới đều phải suy nghĩ. Vì dù muốn dù không, từng quốc gia, từng tổ chức và từng con người đều phải thông qua tiến trình toàn cầu hóa ngay từ thập niên đầu tiên của thế kỷ 21.

Chắc chắn có nhiều điều để dự kiến trên bình diện chính trị, kinh tế, giáo dục, truyền thống, văn hóa, luân lý, và những người có trách nhiệm đã hoặc sẽ nhìn thế giới và dân tộc với một cái nhìn thích hợp và bắt tay vào việc dựa trên những cột mốc mới.

Trong bài này, chúng tôi chúng chỉ muốn tìm xem Giáo Hội nghĩ gì trước hiện tượng không thể không xảy ra này. Vấn đề không phải là xem hiện tượng ấy là một bình minh cho nhân loại và tiếp nhận không đắn đo, cũng không phải là phủ nhận như một giai đoạn bi đát mà nếu muốn sống còn, thì phải lui về nhà mình, inter nos , để an ủi nhau và cố thủ hầu giữ vững gia sản của cha ông.

Lập trường của Giáo Hội được xác định theo hướng ngày lễ Ngũ tuần. Tính chất toàn cầu của Kitô giáo được thể hiện qua sứ điệp của các tông đồ. Sau khi nhận lãnh Thánh Thần các ngài hiểu được những con người đến từ nhiều đất nước khác nhau dù không biết ngôn ngữ của họ, và họ cũng hiểu các ngài khi các ngài loan truyền sứ điệp về sự sống lại của Đức Giêsu, cho dù họ mang bất cứ quốc tịch nào. Ý nghĩa của sự điệp thật rõ ràng: sứ điệp ấy liên quan đến mọi người và không buộc mọi người phải giống hệt nhau mới có thể đón nhận. Sự khai sinh của Kitô giáo có thể được nhìn trong một viễn cảnh mà ngày nay ta gọi là toàn cầu hóa, nhưng một sự toàn cầu hóa tôn trọng cái khác biệt.

Ta hãy lưu ý hai điểm này: Một mặt, phép lạ ngày lễ Hiện Xuống không xảy ra cho những con người riêng lẻ, nhưng cho các Tông Đồ đang qui tụ với nhau. Vấn đề toàn cầu hóa đối với Kitô hữu không phải là một vấn đề cá nhân, đó là công trình tập thể của Giáo hội và của con người trong các cộng đồng khác nhau. Mặt khác, việc toàn cầu hóa ấy là hướng đến hạnh phúc của con người và các dân tộc. Nó không bao giờ nhằm vào của cải, mà ngày nay ta gọi là kinh tế, hay quyền lực, nhưng hướng đến việc thông cảm và hiểu biết giữa các dân tộc với nhau.

Tinh thần toàn cầu hóa ấy đã bị thử thách nặng nề vào thế kỷ thứ XVI, khi người ta đặt những vấn nạn về bản chất của những người Da Đỏ vừa mới được phát hiện ở Châu Mỹ. Họ có phải là con người đúng nghĩa không? Ta có nên đối xử với họ như là con người không? Quyền lợi kinh tế thời ấy đã khiến người ta trả lời là không. Vào thời ấy, được mấy người như Bartholome de las Casas dám đứng ra khẳng định là có? Và thậm chí kêu gọi phải có sự liên đới giữa người và người, giữa các dân tộc với nhau, vì tất cả mọi người đều đồng hàng trước mặt Chúa?

Do đó, hướng đi của Kitô hữu khi bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa này là một hướng đi Phúc Âm: Không thể nhân danh bất cứ ‘lời dạy dỗ’ nào để phủ nhận toàn bộ việc toàn cầu hóa, vì tiến trình ấy là một tiến trình nối kết mọi con người vào một nền văn hóa toàn cầu và giúp họ liên đới với nhau. Nhưng Phúc âm cũng không cho phép cho chúng ta đón nhận việc toàn cầu hóa một cách mù quáng. Cần phải phân định rõ ràng dựa trên ba câu hỏi sau: Việc toàn cầu hóa này có xem con người là mục tiêu hàng đầu không? Nó có liên quan đến mọi con người hay không? Nó có tôn trọng sự khác biệt không? Ba câu hỏi này chỉ là rút gọn những thao thức mà Giáo hội đã công bố từ ngày tiến trình toàn cầu hóa chưa khởi đầu, trong “Populorum Progressio”: thăng tiến từng người và mọi người.

Đấy là lập trường của Giáo hội, và cũng là điều mà mọi Kitô hữu phải suy tư khi bước và thế kỷ thứ 21 này. Và Giáo Hội mà chúng ta đang đề cập đây là Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô, là Cộng Đồng Dân Chúa (Christifideles), trong đó vai trò của mỗi thành phần đề là chủ yếu (essential), chứ không phải là Giáo Hội hình tháp mà hiện nay vẫn còn có người muốn canh giữ, thậm chí củng cố cho vững chắc, để nhờ đó họ tiến lên càng cao càng tốt trong cái bon chen của thế giới quyền lực, và biến phần còn lại của Dân Chúa thành đám nô lệ cho những Pharaô mới.

Cái hình tháp đó là một hình ảnh ngược lại với hình ảnh ngày lễ Ngũ Tuần, mà ta tìm thấy trong Kinh Thánh, qua hình ảnh tháp Babel. Khi mọi người đồng lòng với nhau để thể hiện quyền lực của mình bằng cách xây một ngọn tháp ‘chọc (giận) trời’ thì họ không còn hiểu nhau nữa và mỗi người nói một ngôn ngữ khác nhau. Ta thấy hình ảnh ấy rất mang tính thời sự khi nghĩ đến mọi người trên thế giới hiện nay đang nói cùng một ngôn ngữ Internet. Vì sao những người xây tháp lại bị phạt? Ngoài lý do cổ điển là vì kiêu ngạo, ta có thể tìm ra một lý do khác: Họ hợp nhau lại để củng cố quyền lực, vì thế mà giữa loài người không còn hiệp thông và ngôn ngữ không còn đồng nhất nữa. Đó là sứ điệp đối nghịch với lễ Ngũ tuần. Vấn đề này cũng nóng bỏng chất thời sự, vì hiện nay, dưới nhiều hình thức và cách diễn đạt khác nhau, ở bình diện quốc tế hay quốc gia, ở bình diện giáo hội hay xã hội, cũng đều có hiện tượng củng cố quyền lực, chỉ khác nhau ở mức độ ít hay nhiều, minh nhiên hay ẩn dấu mà thôi.

Thế kỷ thứ 21 đã đảo lộn thế giới về mọi mặt: địa cầu đã trở thành một ngôi làng mà mọi nơi trên hành tinh chỉ còn xa nhau bằng một khoảng cách email. Vấn đề toàn cầu hóa, dù muốn dù không, cũng đang trở thành hiện thực trên mỗi một mảnh đất con người. Vận may hay thách thức? Cả hai mặt biện chứng vẫn còn đấy. Và đối với Kitô hữu, với tư cách là Dân Chúa trong Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô, suy tư về vấn đề này cũng là định cho mình một hướng chọn lựa. Chọn lựa sống Lễ Ngũ Tuần hay chọn lựa xây dựng tháp Babel.

Phần Bị Chú


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Trong vòng 20 năm, một cổ máy tính toán và xử lý thông tin lớn bằng một toà nhà, với giá 2 tỷ Đôla, đã trở thành một chiếc mày vi tính cỏn con nằm gọn trên bàn học trò với giá không quá 600 Đôla.

--------------------------------------------------------------------------------

[2] -Đây là trường hợp của đa số các nước Châu Phi ở phía dưới sa mạc Sahara: số lượng nợ của họ (1400 tỷ franc) tương đương với 270% thu nhập từ xuất khẩu. Mỗi năm, các nước này phải dành ra 1/5 ngân sách để trả nợ, và theo các tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, thì các món nợ ấy sẽ không thể nào thanh toán xong.

-Việc mất giá đồng tiền trong các nước (do hệ thống kinh doanh toàn cầu) cũng là một nguyên nhân gây ra tác hại: một số vay bằng dôla với lãi suất 10% sau này phải trả thành 15-18%, nếu đồng tiền nước vay bị sụt giá. Kết quả: số nợ của các nước Châu Phi dưới sa mạc Sahara đã bị nhân lên 12 lần từ 1970 đến 1980.
(tài liệu CCFD: libérer des pauvres du poids de la dette. tr.3)

--------------------------------------------------------------------------------

[3] Năm 1960: thu nhập của 20% những ngưới giàu nhất thì bằng 30 lần thu nhập của 20% những người nghèo nhất. Năm 1995: thu nhập của 20% những người giàu nhất thì bằng 82 lần thu nhập của 20% người nghèo nhất.
20% những người giáu nhất chia nhau 83% thu nhập thế giới, và 20% những người nghèo nhất chia nhau 1,4% thu nhập thế giới (nt: tr. 2)

--------------------------------------------------------------------------------

[4] Riêng về hệ quả đối với Á Châu, xin tham chiếu văn kiện “MỘT GIÁO HỘI ĐỔI MỚI TẠI CHÂU Á SỨ MẠNG YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ” (Tuyên bố kết thúc Đại hội lần thứ 7 Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Á châu (LHĐGM.AC) Họp tại Samphran, Thái Lan, từ 3 - 13 tháng 1 năm 2000) - mục ‘Toàn cầu hóa’ - Bản dịch của Ban Thường huấn Giáo phận TP.HCM

--------------------------------------------------------------------------------

Toàn cầu hoá

Chúng tôi nhìn vào kịch bản kinh tế của châu Á với mối quan tâm mục vụ lớn lao. Về phía chúng ta, cần phải có một nhận thức phê phán về những thực tại kinh tế-xã hội đa dạng và phức hợp của châu Á (Ecclesia in Asia, số 5. viết tắt : EA) Trong khi tiến trình toàn cầu hoá về kinh tế đã mang lại một số hiệu quả tích cực, chúng ta phải biết rằng "nó cũng gây thiệt hại cho người nghèo, có khuynh hướng đẩy những quốc gia nghèo hơn ra bên lề những quan hệ chính trị và kinh tế. Nhiều quốc gia tại châu Á đã không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường toàn cầu" (EA, 39). Hiện tượng gạt ra bên lề và loại trừ là những hậu quả trực tiếp. Toàn cầu hoá còn làm phát sinh những bất bình đẳng lớn hơn giữa người dân. Nó khiến cho chỉ một số nhỏ dân chúng cải tiến mức sống, còn nhiều người phải ở lại trong cùng khổ. Hậu quả khác nữa là tình trạng đô thị hoá quá mức, gây ra sự tập trung dân số quá lớn tại các đô thị và hậu quả là di dân, tội ác và sự khai thác những thành phần yếu kém hơn.

Chúng ta biết rằng "toàn cầu hoá về văn hoá" qua việc vận dụng quá mức các phương tiện truyền thông đang "nhanh chóng lôi kéo các xã hội Á châu vào nền văn hoá tiêu thụ toàn cầu, nền văn hoá vừa duy vật vừa duy thế tục", xói mòn hoặc gây ra sự xuống cấp những giá trị truyền thống của xã hội, tôn giáo và văn hoá, vốn là những giá trị nâng đỡ châu Á. Một tiến trình như thế là sự đe doạ lớn đối với các nền văn hoá và tôn giáo châu Á, đưa tới "thiệt hại không thể tính nổi" (x. EA,7).

 

GIÁO HỘI TRÊN KHÔNG TRUNG ĐI VỀ ĐÂU?

Linh Giao

LTS. Song song với mục Diễn Đàn Tín Hữu đang mổ xẻ đề tài 'danh xưng Cha/Con, coi như là chuyện nhỏ, chuyện 'ruồi bu', nhưng thực chất lại là nguồn gốc 'tác sinh' ra 'Hội Chúng Quyền Lực' trong Giáo Hội Việt Nam, thì trong mục Quan Điểm này, chúng tôi làm khơi dậy đề tài quan trọng: đi tìm Khu Đất Đứng Chung cho Giáo Hội Việt Nam. Tất cả trọng tâm của chúng ta hướng vào đó, để:


thay vì tranh chấp, chúng ta tìm về hòa hợp,

thay vì đối chọi, chúng ta tìm về đối thoại,

thay vì chia lìa, chúng ta tìm về hiệp nhất,

thay vì cố thủ, chúng ta mở rộng đôi tay đón nhau là anh em,

thay vì quy chiếu về mình, chúng ta quy chiếu về Chúa, về Giáo Hội.


* Xu hướng thời đại

Vào những năm cuối thế kỷ 20, kể từ khi xuất hiện hệ thống truyền thông trên mạng lưới, thế giới chuyển biến theo một tốc độ mau lẹ như chưa từng thấy trong lịch sử. Thế giới càng ngày càng xích lại gần nhau, càng liên hệ tới nhau, càng liên minh với nhau (xin xem loạt bài 'Giáo Hội Trên Mạng Lưới'). Nằm trong xu hướng thời đại này, Giáo Hội Công Giáo cũng không thể đi ra bên ngoài khỏi quỹ đạo này. Xu hướng thời đại này không thể quay trở lui được nữa. Thế thì, được Chúa Kitô trao cho nhiệm vụ làm ngôn sứ, tư tế và vương đế, Giáo Hội không thể đi sau thế giới được nữa, nhưng phải nhìn ra dấu chỉ của Ngài để mau lẹ vươn lên phía trước thi hành các nhiệm vụ Ngài đã uỷ thác.

Muốn thế, Giáo Hội không thể nặng nề về cơ chế, về phẩm trật, về hình thức, nhưng phải mau lẹ về thần khí. Muốn gối đầu ngọn sóng hướng dẫn thời đại, Giáo Hội phải đào tạo cấp thời được nhiều tinh binh đầy sủng lực. Mặt trận của thời đại mới này không còn là mặt trận quy ước nữa với các đồn bốt kiên cố, các binh đoàn hùng hậu, các chiến lược cổ điển để đối phó với nạn khủng bố, nhưng phải áp dụng chiến thuật mới với các toán tinh binh xung kích, các khí giới gọn nhẹ, các tình báo bén nhậy, các kỹ thuật tác chiến tân kỳ.

Satan đang áp dụng tối đa chiến thuật đánh khủng bố, đánh tự sát, thế mà Giáo Hội không lo xoay chiều tác chiến cho thích ứng, như vậy làm sao đương đầu được với chiến lược khủng bố tinh thần. Thế giới đang thất điên bát đảo với nạn khủng bố, phải chăng Giáo Hội thoát được hiểm họa này không, hay cũng đang lâm vào các cơn khủng hoảng trầm trọng đó?

Nhìn vào hiện tình Giáo Hội, cơn khủng hoảng về lạm dụng tình dục của giới giáo sĩ tại Hoa Kỳ đang làm rung chuyển và đảo điên cơ chế của Giáo Hội. Phải nhìn nhận ra đây chính là đòn cảnh báo của Thiên Chúa. Đền thờ Giêrusalem thời xưa do vua Salomon xây dựng vĩ đại sang trọng nhất thế giới - từ trước cho tới hậu thế không ai sánh bằng - để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng rồi vào cuối triều đại của mình, vua Salomon và dân Do Thái quay ra tôn thờ ngẫu tượng, thế là Thiên Chúa cũng đã dùng tay ngoại bang san bằng công trình siêu đẳng này.

Giáo Hội Hoa Kỳ là một Giáo Hội nổi tiếng thế giới về các hoạt động bác ái và sùng đạo..., nhưng rồi cũng chính Giáo Hội này phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng, vì hàng tư tế có nhiều người quay ra thờ ngẫu tượng tình dục và nhiều giáo sĩ cao cấp che đậy, bưng bít cho đàn em sa lầy trong vũng lầy 'êm ái' vô luân này. Lần này, phải chăng Thiên Chúa đang dùng truyền thông và tòa án Hoa Kỳ cảnh báo Giáo Hội?

Và một loạt các cơn khủng hoảng được ví như những trận khủng bố đang gây chấn động và đổ vỡ cho Giáo Hội Hoa Kỳ và Giáo Hội hoàn vũ. Từ đây, một cuộc cách mạng đang bùng nổ trong Giáo Hội đòi hỏi Giáo Hội phải duyệt xét lại chính mình, kiểm điểm chính mình, nhận lỗi về chính mình, để rồi dứt khoát phải thay đổi chính mình. Theo những kết quả điều tra do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ công bố, Giáo hội Hoa Kỳ đã phạm nhiều sai lầm trong việc cẩu thả thâu nhận chủng sinh và đào tạo chủng sinh thành những công chức cai trị và giai cấp (xin xem các bài viết của Voice of the Faithful), hơn là thành những mục tử chăn dắt đoàn chiên của Chúa và tôn thờ Ngài.

Với lối đào tạo giáo sĩ và thi hành mục vụ đặt trọng tâm vào thánh đường, vào cơ cấu, vào phẩm trật trong quá khứ và hiện tại đang mất nhiều hiệu lực, thì phải chăng Giáo Hội không cần xoay chiều đào tạo và giáo huấn thích ứng cho các mục vụ ngoài thánh đường và trên không trung (phát thanh, truyền hình, mạng lưới)?

Giáo Hội trên không trung ngày nay đang do giáo dân tự nguyện đứng ra điều hành hơn là giáo sĩ. Điển hình như tại vùng Orange County, thủ đô tị nạn cộng sản, hiện nay có khoảng mười chương trình phát thanh 'đạo', thì có tới chín chương trình do giáo dân điều động, trong khi chỉ có một chương trình do các linh mục điều hành. Mạng lưới do giáo dân mở ra khá nhiều, trong khi đó hầu như không có mạng lưới nào do giáo sĩ điều hành. Trước cảnh tương phản đó, Giáo Hội Việt Nam đi về đâu nếu không tìm ra Khu Đất Đứng Chung cho các thành phần trong Giáo Hội trong kỷ nguyên mới này? (xin xem bài Quan Điểm: 'Đi tìm Khu Đất Đứng Chung Công Giáo')

* Giáo Hội theo cái nhìn của Linh mục Tiến sĩ Henri Nouwen

Theo xu hướng của các nhà thần học và tu đức ngày nay, đặc biệt linh mục tiến sĩ thần học Henri Nouwen đang hướng chúng ta về xây dựng Giáo Hội thiên về Thần Khí hơn là cơ chế. Đọc tập sách nhỏ 'Những nhà lãnh đạo của thế kỷ 21' của ngài, chúng ta nhận ra Giáo Hội Hoa Kỳ, trong đó có chúng ta, đã và đang sa vào ba chước cám dỗ trong sa mạc.
Đa số chúng ta không vượt qua cơn cám dỗ đầu tiên về ham muốn đủ thứ thể xác như ăn uống, tiền tài, tình dục.
Tiếp tới cơn cám dỗ thứ hai, nhiều người, nhất là các người có máu mặt, ít ai thắng lướt được tham muốn danh lợi, tiếng tăm.
Và tới cơn cám dỗ thứ ba, nhiều người trong tầng lớp lãnh đạo trong Giáo Hội còn khó vượt qua hơn nữa, đó là ham muốn quyền hành, ảnh hưởng.
Trước những cơn cám dỗ này, Chúa Giêsu đã chiến thắng bằng cầu nguyện, chay tịnh và sống lời Thiên Chúa. Từ đây linh mục tiến sĩ thần học Nouwen đề nghị chúng ta cần phải tuân thủ các kỷ luật tự giác áp dụng cho chính mình:
cầu nguyện chiêm niệm
nhận tội và tha thứ
suy niệm thần học.

Trong phần kết luận của cuốn sách nhỏ này, linh mục Nouwen tổng kết:


"Việc tôi di chuyển từ Harvard đến l'Arche (cộng đồng của những người tâm thần) đã giúp tôi đi tới nhận thức mới rằng những suy nghĩ của riêng tôi trước đây về đường lối lãnh đạo Kitô giáo đã bị các tham vọng muốn mình nổi bật, mình danh tiếng, mình quyền uy tác động mãnh liệt. Từ trước tới nay tôi vẫn chủ trương làm thế nào mình phải nổi bật, phải danh tiếng và phải nắm nhiều uy quyền mới là những nhân tố của một mục vụ hiệu năng. Tuy nhiên, sự thật không phải thế, đó chỉ là những cám dỗ chứ không phải ơn gọi. Chúa Giêsu hỏi chúng ta, "Con có yêu mến Cha không?"

"Chúa Giêsu sai chúng ta ra đi như những kẻ chăn chiên và Ngài hứa ban cho chúng ta một nếp sống, mà chúng ta phải không ngừng giơ tay ra, để được Ngài dẫn dắt đến những nơi chúng ta thường không muốn tới. Ngài đòi hỏi chúng ta phải thay đổi nhãn quan từ ham muốn nổi bật tới nếp sống cầu nguyện, từ những lo lắng sao cho mình nổi tiếng với các mục vụ tập thể và cộng đồng và từ quan niệm lãnh đạo xây dựng trên quyền uy tới một thái độ lãnh đạo chú tâm xem Chúa muốn dẫn dắt chúng ta và dân của Ngài đi theo đường hướng nào.

"Các tín hữu của l'Arche đang chỉ cho tôi nhìn ra những đường hướng mới. Tôi là kẻ học hành mê muội (slow learner). Những mô thức cũ đã chứng tỏ là hiệu năng, giờ đây dễ gì tôi từ bỏ được. Nhưng khi tôi nghĩ về nhà lãnh đạo Kitô giáo của thế kỷ 21, tôi tin rằng từ những người tôi ít kỳ vọng nhất để học hỏi được điều gì mới, thì thực ra họ đang vạch vẽ lối đường cho tôi đi. Tôi hy vọng và nguyện xin những gì tôi đang học được trong nếp sống mới này, không phải chỉ trở thành hữu ích cho tôi, nhưng còn là điều gì đó cũng tốt đẹp cho các bạn, để từ đó các bạn biết nhìn ra thế nào là nhà lãnh đạo của tương lai.

"Điều tôi vừa trình bầy, thật rõ ràng chẳng có gì mới mẻ cả, nhưng tôi hy vọng và nguyện xin những gì các bạn đã nhìn ra về một thuật lãnh đạo Kitô giáo truyền thống và cổ điển nhất, giờ đây hãy còn là một viễn ảnh đang chờ đợi chúng ta phải thể hiện trong tương lai.

"Tôi để lại cho các bạn hình ảnh về nhà lãnh đạo cổ điển với đôi bàn tay rộng mở đang chọn một lối chuyển động đi xuống. Đó là hình ảnh về một nhà lãnh đạo biết cầu nguyện, biết thương cảm và gây được niềm cậy tin. Cầu mong hình ảnh này đổ tràn đầy tâm hồn các bạn niềm hy vọng mới, can đảm mới và tin tưởng mới khi các bạn bước chân vào kỷ nguyên mới."


* Giáo Hội là ai?

Bác sĩ James Muller, người đoạt giải y khoa Nobel và đang là chủ tịch của phong trào Voice of The Faithful, đã viết trong bài 'Biến đổi đức tin' (xem mục Tài Liệu Đặc Biệt) kể lại việc hội họp của nhóm tại nhà thờ St. John ở Boston có thể gây khó xử cho linh mục quản nhiệmTom Powers. Sau khi nhóm ngỏ ý muốn dời địa điểm đi nơi khác, linh mục quản nhiệm thẳng thắn trả lời: "Không sao, các vị vẫn tiếp tục họp ở đây đi, vì chính quý vị là Giáo hội mà".


Như vậy Giáo Hội là ai? Chắc chắn câu trả lời của vị linh mục quản nhiệm Tom Powers không mang ý nghĩa về một Giáo Hội cơ cấu, nhưng về Giáo Hội như một Thân Thể huyền nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi tín hữu đều là chi thể của Thân Thể Chúa Kitô và như vậy đều là thành phần trong Giáo Hội. Câu trả lời của vị linh mục này không nhắm đến khía cạnh thể chất của Giáo hội với cấu trúc bên ngoài, nhưng nhắm đến khía cạnh thiêng liêng của Giáo Hội. Giáo Hội Chúa trước khi là một cơ cấu, Giáo Hội ấy đã là thần khí trong ngày Lễ Hiện Xuống, khi Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho khoảng 120 người có mặt trong căn nhà trên lầu. Giáo Hội được hình thành từ giây phút ấy.

Sau khi nhận được tràn ngập Chúa Thánh Linh rồi, mọi người, trong đó có Mẹ Maria, các tông đồ và các tín hữu đều tuốn đi khắp nơi loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô. Rồi trong giờ phút về trời, Chúa Giêsu ban bố Đại Lệnh Truyền cho Giáo Hội phải thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho thế giới. Như vậy Giáo Hội cơ cấu chỉ có ý nghĩa khi đôn đốc, thúc đẩy mọi tín hữu loan báo và sống Tin Mừng, chứ không phải tập trung quyền uy để bao cấp quản trị Giáo Hội và hạn chế công việc loan báo và sống Tin Mừng của mọi tín hữu, nhất là các tín hữu giáo dân chiếm tuyệt đại đa số trong Giáo Hội. Giáo Hội càng nặng phần cơ chế, càng nhẹ phần thần khí. Chúa Cha đang đi tìm kiếm các tín hữu thờ phượng Ngài trong thần khí và trong sự thật hơn là trong cơ chế (Ga 4:23).

Trở lại với bài Tin Mừng Chúa Giêsu gặp gờ nàng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp (Ga 4), Ngài đã công bố Giáo Hội Không Trung ngay từ thời đó rồi. Đây, chúng ta hãy nghe Ngài đối đáp với nàng thiếu phụ: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật" (Ga 4:21-24).

Việc thờ phượng Chúa Giêsu nói ở đây không còn câu nệ ở nhà thờ vật chất, nhưng chính yếu ở nơi nhà thờ tâm linh, bất cứ ở không gian nào, thời gian nào.Việc thờ phượng Chúa không còn bị hạn chế trong một nơi chốn nào, một thời gian nào. Không trung trở thành đền thờ của Chúa để mọi tín hữu đến thờ phượng Ngài trong thần khí và sự thật. Chính Ngài trở thành đối tượng thờ phượng duy nhất để mọi tâm hồn đến với Ngài. Hãy thờ phượng Ngài bằng cách tập trung vào Ngài, chúc tụng Ngài, nối kết với Ngài, thông hiệp với Ngài. Ngài trở thành Nước Hằng Sống và chân lý cho mọi tín hữu đến kín múc, với không phân biệt nam hay nữ, giáo sĩ hay giáo dân. Sự thật, chân lý không gì khác hơn là chính Ngài, chính Lời Ngài = Lời ban Sự Sống.

Thế thì Giáo Hội Không Trung vào thời điểm này là gì nếu không phải Giáo Hội phải tập trung mọi cố gắng, mọi nỗ lực, mọi tài trí, mọi phương tiện, mọi nhân sự vào việc hướng dẫn, và cổ động cho mọi tín hữu của Chúa Kitô phải đi vào công việc thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và trong chân lý ngay từ giờ phút này. Không chần trừ được. Không chậm trễ được nữa. Giáo Hội phải hướng giáo dân về nhà thờ không gian nhiều hơn là nhà thờ trên mặt đất trong thời đại điện toán hôm nay. Giáo Hội của Chúa Kitô là Giáo Hội tiến theo thần khí và sự thật là Tin Mừng của Chúa Kitô. Và như vậy, Giáo Hội của Thánh Thần Chúa là Giáo Hội khai phóng chứ không phải Giáo Hội nặng nề cấu trúc, phẩm trật và hình thức. Không tiến mau lẹ lên theo lời công bố của Chúa Kitô ở trên, Giáo Hội của Ngài sẽ bị thế giới trần tục trên không trung đè bẹp. Lỗi lầm ấy sẽ về tay ai?

Mùa Chay 2004-03-31

 

GIÁO HỘI TRÊN MẠNG LƯỚI TOÀN CẦU - chương 3

Lts. Cuốn sách này của Wilson được Linh Giao phóng dịch, hướng dẫn chúng ta đi vào những nhận thức mới về cách thức phải điều chỉnh và cải tiến các mục vụ cũng như điều hành trong Giáo Hội hợp với đà tiến hóa của nhân loại. Không có cái nhìn bén nhậy và thích ứng, Giáo Hội chúng ta thay vì hướng dẫn Dân Chúa và trần thế tiến về Miền Đất Hứa, chúng ta lại trở thành một Giáo Hội níu kéo và làm trì trệ bước tiến của Dân Chúa và nhân loại. Chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa trên hành trình thời đại mới hôm nay.



Chương 3: MỤC VỤ MẠNG LƯỚI TOÀN CẦU



Thời đại mới, kỹ thuật mới

Mỗi thời đại Thiên Chúa xử dụng các nhân sự mới và các phương tiện kỹ thuật mới. Vào thời sơ khai, Chúa xử dụng Abraham, Giuse, Môsê là những người chăn chiên đứng ra lãnh đạo gia tộc, bộ lạc hoặc dân Chúa bằng các tiếng nói bình thường để chuyển đạt ý muốn của Ngài cho một gia tộc, một bộ lạc hay dân riêng của Ngài. Vào thời đại kỹ nghệ, Ngài xử dụng thêm các kỹ năng của các máy khuếch âm, các máy phát thanh, phát hình để truyền đạt Lời Ngài và vào thời đại hôm nay, Ngài cần chúng ta đem Lời Ngài, ơn cứu độ của Ngài đến cho người khác bằng mạng lưới toàn cầu. Mạng lưới toàn cầu đang trở thành một kỹ năng có mặt mọi nơi mọi lúc và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường sống của chúng ta.

Các dịch vụ bưu điện đang được thay thế bằng các kỹ thuật E-Mail, E-Stamp. Trong lãnh vực ngân hàng, dần dần chúng ta không phải ra ngân hàng nữa, nhưng E-Cash sẽ trao đổi tiền bạc theo ý chúng ta. Công việc mua bán càng ngày ngày càng thuận lợi, dễ dàng và mau chóng trên mạng lưới với các bar code mới. Như vậy công việc thông thương, trao đổi giữa con người với nhau đang được thiết kế lại. Giáo hội của Chúa Kitô cũng cần nhìn vào các thể thức trao đổi mới này, các kỹ thuật mới này để đáp ứng nhu cầu thời đại. Thời đại truyền thông đi theo định luật căn bản mới mẻ này: nếu bạn không làm, người khác sẽ làm. Với đà tiến triển này, khi Thiên Chúa đã cho chúng ta nhìn thấy viễn ảnh mới trong tương lai và các phương tiện truyền thông mới, chúng ta không được phép phản ứng thờ ơ. Chúng ta không thể rút lui tìm về hưu trí, trái lại, chúng ta phải sẵn sàng học hỏi và tiến triển thêm nữa. Không còn con đường lựa chọn nào khác.

Tác giả Wilson đặt vấn đề cho các Kitô hữu: nếu các cơ sở kinh doanh thành công với các chiến thuật uyển chuyển và thích nghi trong công việc ứng dụng các kỹ thuật mới, thế thì từ các nhà thần học cho tới giáo dân, chúng ta có cần khai thác mạng lưới truyền thông toàn cầu cho Đại Cuộc Tân Rao Giảng Tin Mừng của Chúa Kitô giữa thời đại mới hôm nay không? Chúng ta có thể bỏ được cuộc đua giữa vời không? Chúng có thể thân thưa với Chúa như Môsê xin Chúa cắt dặt người khác thay thế chúng ta không? Chúng ta không thuộc về thế gian thật đấy, nhưng chúng ta lại đang sống giữa trần giới hôm nay.

Như vậy chúng ta có thể bỏ qua một lợi khí Thiên Chúa đang đặt trong tầm tay chúng ta không? Chúng ta đang nhìn thấy trước mắt nhiều kỹ năng của mạng lưới cần thích ứng và tận dụng cho chính nghĩa Chúa Kitô, chúng ta từ khước vì một vài khó khăn sao? Phải chăng Chúa không muốn chúng ta sống lời Thánh Phaolô viết cho Timothê: "Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một Thần Khí làm chúng ta nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ" (2Tim 1:7)?


Các nhu cầu thời đại


Chúng ta đang sống trong một thời đại có nhiều khuynh hướng xa lạ, và hơn thế còn đi ngược lại lối suy nghĩ và lối sống của chúng ta, tuy nhiên, những khuynh hướng đó lại đang tác động mãnh liệt vào cuộc sống chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể tránh thoát khỏi kỹ thuật và các phương tiện truyền thông đang là những tác nhân chính gây ra những vấn đề, những khủng hoảng hiện nay trong nhiều lãnh vực. Điển hình như trong lãnh vực giải trí với các phim ảnh và truyền hình hiện nay đang làm xoi mòn các giá trị đạo đức và biến chúng ta thành vô cảm trước các cảnh bạo lực. Tin tức hàng ngày tập trung vào những chuyện vô lý như chuyện Simpson ra tòa trở thành tin thời sự nóng bỏng nhất kéo dài cả hàng tháng trời, làm phai nhòa những tin quốc tế quan trọng khác ...

Lyle Schaller quan sát thấy ba khuynh hướng nổi bật sau đây đang ảnh hưởng xã hội chúng ta:


1/ Quần chúng ngày nay tổ chức chung quanh các hiệu quả xã hội, chứ không phải cơ chế. Càng ngày người ta không tổ chức theo tính cách hội viên thuộc một phe phái hay một tổ chức xã hội nào. Thay vào đó, người ta tổ chức theo mạng lưới lợi ích đặc biệt nào đem lại hữu dụng cho cá nhân hơn là cho tổ chức.


2/ Hoa Kỳ đang di động khỏi gốc rễ Âu Châu. Nước Mỹ đang di chuyển khỏi cơ cấu kinh doanh dựa trên nền tảng Âu Châu để chuyển sang Á Châu. Hàng ngày biết bao di dân từ khắp nơi trên thế giới đổ vào Hoa Kỳ.


3/ Người Mỹ không còn nhìn chân lý như một thực tại khách quan nữa. Xã hội ngày nay cũng như các nhà lãnh đạo chính trị đang yểm trợ cho một thứ ngôn ngữ hàm hồ, nhập nhằng. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai không còn rõ ràng nữa.

Tác giả Wilson đưa ra bản tóm lược về các kỹ thuật đem đến các khuynh hướng sau đây:


Các sự vật đang hoán chuyển từ nguyên tử sang các đơn vị điện tử.

Các luật lệ kinh doanh đã thay đổi và còn tiếp tục thay đổi.

Thế giới trở thành vô biên giới và không còn thời gian ấn định nữa.

Mạng lưới trở thành một xã hội toàn cầu.

Ngôn ngữ đang được giảm thiểu trở ngại.

Kỹ thuật có mặt khắp nơi (ubiquitous technology) đang xâm nhập mọi chuyện chung quanh chúng ta.

Tiền mặt đang được định số lại và sẽ định hình kinh tế cũng như giao thương thế giới.

Sức mạnh đang di chuyển đến các cá nhân.

Thị trường ngày nay là máy điện toán.

Không còn uy quyền nào kiểm soát được Mạng Lưới cả.

Các chính quyền và các cơ chế trên thế giới đang yếu dần.

Lãnh đạo thế giới đang rơi vào khủng hoảng do sức mạnh bị dời chuyển.

Các chuyên viên kỹ thuật thực tế nắm quyền lãnh đạo.

Nền văn minh gắn máy tinh khôn đang tiến vào nhân loại.

Máy móc sẽ trở thành sáng tạo hơn con người

Học hỏi ngày nay trở thành một kỹ năng cao cấp nhất.

Kỹ thuật mới đang làm thay đổi cuộc sống và xã hội chúng ta một cách quá mau lẹ. Nhiều xu hướng mới như đang muốn quét sạch chúng ta và đang thúc bách Giáo Hội cần tập trung suy tư về công việc điều hành, quản lý mục vụ thế nào khi các khuynh hướng này càng ngày càng gia tăng phát triển. Dĩ nhiên tín lý của chúng ta không có gì thay đổi cả, bởi vì đây là những chân lý vượt thời gian và bất biến của Thiên Chúa, tuy nhiên chiến thuật trình bầy và các thể thức truyền đạt sẽ thay đổi theo thời gian, có khi phải thích ứng thật mau lẹ. Chúng ta cần phải suy tư lại các chiến thuật mới mẻ nhằm đáp ứng các nhu cầu của tất cả những ai sống chung quanh chúng ta.


Quân bình giữa làm việc và nghỉ ngơi


Ngày nay kỹ thuật đã đưa con người tới chỗ không tránh khỏi các tiếp xúc được nữa. Chúng ta đang có trong tầm tay điện thư (e-mail), ngôn thư (voice mail), máy vi tính hay điện toán, máy chuyển thư (fax machine), điện thoại trên máy bay, điện thoại cầm tay (cellular phone). Với số lượng máy điện toán bán ra mỗi năm vượt qua con số máy truyền hình tại Hoa Kỳ và điện thoại cầm tay được coi như cuốn sổ tay và gọi nhau qua tiếng nhạc cả trong thánh đường nữa, con người như đang bước vào một thế giới mới.

Với những phương tiện kỹ thuật dồi dào như thế và có thể xử dụng bất cứ lúc, bất cứ nơi đâu, ngày làm việc của con người không còn phải là '8 tiếng vàng ngọc' như trước đây nữa, nhưng có khi trở thành 'thiên thu bất tận.' Với chiếc máy điện toán sách tay (laptop) và chiếc điện thoại cầm tay, văn phòng làm việc không còn phải là một địa điểm nào cố định nữa, nhưng trở thành lưu động, có khi trên xe hơi, trên máy bay, hoặc đang đi du lịch ở một nơi cách văn phòng cả nửa vòng trái đất. Như vậy văn phòng làm việc không còn phải là địa điểm làm việc nữa (place-specific), nhưng chính là người làm việc (person-specific).

Wilson nhìn nhận ông luôn luôn làm việc với văn phòng của ông qua hệ thống ngôn thư (voice mail) nhờ điện thoại cầm tay. Tất cả các tài liệu chuyển cho nhau một cách dễ dàng qua điện thư (e-mail). Nói tóm lại văn phòng của ông hoàn toàn di động rất thuận lợi chỉ trong một chiếc cặp sách tay. Văn phòng này có thể di động đến bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Văn phòng này có thể làm việc bất cứ thời giờ nào ban ngày cũng như ban đêm. Văn phòng này có thể dàn dựng các sáng tạo mới. Văn phòng này có thể giải quyết các khó khăn ngay tại chỗ một mình như đang ngồi trong phòng họp thảo luận với các cộng sự viên. Và như vậy theo Wilson, các vị chủ chiên có thể điều phối các cộng sự viên trong công việc mục vụ, giải quyết các vấn đề, bàn hỏi ý kiến, tưởng lệ những ai cần thiết. Muốn thực hiện được các công việc này chu đáo, điều cần thiết là các nhà lãnh đạo tôn giáo này phải luôn luôn duy trì liên lạc với các cộng sự viên của mình. Quả thật, kỹ thuật đã đổi mới cách thức làm việc cũng như mục vụ một cách toàn diện.

Nhơ kỹ thuật của máy vi tính và điện thoại cầm tay, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi hòa trộn lẫn nhau như không còn biên giới nữa. Với nhiều nhà lãnh đạo, thời gian trong tuần lại thảnh thơi hơn thời gian cuối tuần. Năm nay con số dự trù bán ra các điện thoại cầm tay lên tới khoảng hai mươi triệu cái (vào năm 1999). Tất cả giao tế thương mại và các quyết định then chốt đang được kỹ thuật cung cấp không kể thời gian và không gian. Chiếc chìa khóa cầm trong tay chính là liên lạc, nối kết với nhau. Thế giới của các đơn vị vi tính chính là thế giới không có biên giới, không có thời gian. Hiện nay có tới 60 phần trăm các người làm việc tại Thung Lũng Hoa Vàng tự xếp thời gian làm việc cho riêng mình. Chỉ riêng với chiếc điện thoại cầm tay thôi, thế giới riêng tư của bạn không còn là của bạn nữa. Với nhiều người, ngày Chúa Nhật bây giờ trở thành ngày bận rộn nhất.

Trước đây thời gian nghỉ ngơi cho các nhà hoạt động kinh doanh hoặc trong các lãnh vực khác chính là thời gian di chuyển trên máy bay, trên xe hơi, bây giờ thời gian đó không còn là thời gian bất khả xâm phạm nữa, nhưng lại là thời gian làm việc như tại văn phòng. Với chiếc máy vi tính sách tay và chiếc điện thoại cầm tay, thời gian làm việc và giải trí không còn ranh giới rõ rệt nữa. Người ta có thể giải trí, vui chơi trong lúc làm việc và làm việc trong thời gian nghỉ ngơi. Thế giới bên ngoài đang đè bẹp thế giới bên trong của con người. Thế giới vật chất đang muốn gạt bỏ thế giới tâm linh ra ngoài lề cuộc sống. Với những đặc tính khác thường này, Don Tapscott, trong cuốn 'Growing Up Digital' phỏng khoảng ba trăm người trẻ, ông còn nhận ra người trẻ dễ bị quyến dũ vào các hình ảnh dâm dật.

Chính vì thế tác giả nhắc nhở chúng ta rằng mỗi một kỹ thuật mới đều có những vấn đề của nó và chúng ta cần phải thận trọng, canh phòng. Nếu các phương tiện truyền thông khác trước đây đã và đang là phương tiện cho tội lỗi hoành hành như các sách vở báo chí, phim ảnh, truyền hình đồi trụy vẫn reo rắc nọc độc giết hại tâm hồn con người, ngày nay mạng lưới toàn cầu cũng đang là phương tiện cho tội ác tận dụng nhất là qua các hình ảnh dâm dật. Kỹ nghệ làm tiền nhiều nhất trên mạng lưới toàn cầu lại là kỹ nghệ buôn bán các hình ảnh dâm dật này. Con người vô phương chống lại ảnh hưởng lan tràn của trận chiến dâm ô này. Giáo hội có thể làm ngơ trước các thực trạng này được không? Các Kitô hữu như chúng ta có thể buông xuôi phương tiện hiện đại và đầy hiệu năng này vào tay trần tục được không?

Hiện nay nhân số thế giới khoảng 6 tỉ người. Amy Coen, giám đốc Population Action International đưa ra con số nhau sau: năm 1804 nhân loại mới có một tỉ người. Chỉ 150 năm sau tăng lân ba tỉ vào năm 1960. Và bốn chục năm sau, năm 2000 tăng lên 6 tỉ. Cứ theo cấp số nhân này, vào năm 2050, nhân loại sẽ tăng lên 12 tỉ. Hiện nay cứ mỗi phút có 3.500 trẻ em sơ sinh tiến vào thế giới. Riêng tại Hoa Kỳ, người da trắng hầu như không gia tăng, nhưng lại gia tăng 95% từ các quốc gia Á châu, Châu Mỹ La Tinh, Phi Châu.

Trước những thực tế này, chúng ta có bi quan, có đánh mất niềm tin, chúng ta có chấp nhận mình tụt hậu không? Trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 tại Roma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và hơn hai triệu người trẻ gặp mặt nhau tại thủ đô Vatican đã đứng lên tuyên tín nơi Đức Kitô và nhận lấy trách nhiệm: "Các con đừng sợ phải gánh lấy các trách nhiệm. Giáo hội cần đến các con. Giáo hoàng cần đến các con. Trách vụ thật nặng nề và cao cả, nhưng các con đừng quên khi Thiên Chúa mời gọi các con, Ngài không quên ban xuống cho các con sức mạnh cần thiết để các con hoàn thành."

 

GIÁO HỘI TRÊN MẠNG LƯỚI TOÀN CẦU - chương 2

Chương 2 :THẾ NÀO LÀ MẠNG LƯỚI TOÀN CẦU?


Trong bài trước, chúng tôi đã trình bầy tầm vóc quan trọng của Mạng Lưới Toàn Cầu trong công cuộc loan báo và làm chứng tá cho Tin Mừng của Chúa Kitô. Giáo Hội của Chúa không thể làm ngơ hoặc thờ ơ trước các dấu chỉ thời đại của Ngài. Hôm nay, chúng tôi mời quý bạn cùng với chúng tôi tiếp tục đi vào khai triển cuốn sách thời đại, cuốn The Internet Church của Walter P. Wilson, hiện đang hoạt động trong ban giám đốc của Leadership Network tại Texas. Tác giả Wilson sẽ giúp chúng ta suy tư về các chiến thuật đáp ứng được các nhu cầu tâm linh của con người thời đại hôm nay. Đó là những khía cạnh tích cực, chủ động và hợp thời của mục vụ trong Giáo Hội hiện nay.

Từ các nguyên tử đến các đơn vị dữ kiện nhỏ nhất của máy điện toán (Atoms to Bits)

Mạng lưới được bắt nguồn từ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Lạnh muốn khai thác dự án thông tin hữu hiệu khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh nguyên tử hoặc với những tai ương thiên nhiên. Dự án này được đặt tên tắt là ARPNet (Advanced Research Projects Agency Network) vào thập niên 1970. Đến thập niên 1980 tổ chức khoa học National Science Foundation muốn tận dụng kỹ thuật này áp dụng vào mục tiêu nối kết các nghiên cứu của các đại học. Để thực hiện được mục tiêu này, cần khai triển chiếc xương sống truyền thông nối kết với nhau bằng hệ thống điện thoại cao tốc. Một khoa học gia nào tìm ra được một kết quả nghiên cứu nào, lập tức các khoa học gia khác đều được thông tri.

Từ những thành quả này, Nicholas Negroponte, giám đốc của MIT Media Lab nhìn ra một viễn ảnh mới tạo ra các hệ thống truyền thông và nối kết. Ông gọi viễn ảnh này bằng cái tên “Atoms to Bits.” Điển hình như cuốn Thánh Kinh trước đây khi in thành sách phải cần đến biết bao nhiêu tờ giấy trắng, cân nặng bao nhiêu… Rồi khi mang đi đâu cũng kồng kềnh và nặng nề. Trong lúc ngày nay, chỉ cần dùng con chuột đi vào thế giới của “bits”, chúng ta có đầy đủ cuốn Thánh Kinh trong đó.

Trước đây cuốn Thánh Kinh được cấu tạo bằng các nguyên tử và mỗi người cầm lấy đọc một mình, ngày nay, trên mạng lưới, hàng trăm hàng ngàn người cũng có thể đồng thời đọc cùng một cuốn Thánh Kinh. Hơn thế nữa, khi đưa sách báo vào Việt Nam, chúng ta gặp rất khó khăn và hạn chế trước hàng rào an ninh, nhưng với mạng lưới, chẳng hàng rao an ninh nào có thể cản ngăn xuể. Hiện nay tại Trung Quốc có khoảng hơn bốn triệu người đã vào mạng lưới toàn cầu rồi. Các bits có thể du hành đi khắp nơi, trên xe lửa, trên máy bay.

Những gì phải trả tiền khi mua atoms, hầu như chúng ta chẳng phải trả đồng nào mua bits cả. Chúng ta phải tốn phí khá nhiều khi mua giờ phát thanh hoặc phát hình, trong lúc chúng ta muốn xài bao nhiêu giờ cho các chương trình trên mạng lưới, hầu như chúng ta chẳng phải đóng một phí khoản nào. Phổ biến bài vở trên phát thanh hoặc qua báo chí, chúng ta bị hạn định trong giới hạn địa phương, trong lúc đem chương trình đi chu du khắp thiên hạ trên mạng lưới toàn cầu, chúng ta được “free”.

Trước đây, bục giảng hoặc lều giảng chỉ có thể hạn chế đến với hàng trăm, hàng ngàn người, trong lúc với lều Mạng Lưới, hàng chục ngàn, hàng triệu người có thể tìm được Chúa, đến gặp Chúa. Biết bao người ngại đến thánh đường, trong lúc Chúa Thánh Linh có thể dẫn dắt họ tìm gặp Ngài trên mạng lưới, nhất là trong những lúc họ cô đơn, họ chán nản, họ tuyệt vọng. Những thông điệp qua điện thư (e-mail) đích danh đến với từng người và chẳng không gian và thời gian nào cấm cản được cả.

Các thông điệp điện thư đến trực tiếp trên bàn giấy chúng ta chẳng phải qua trung gian của ai cả và cũng chẳng tốn phí đồng nào. Trên mạng lưới, con người sống với nhau thật đại đồng, nơi đây chẳng có kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính hoặc văn hóa…. Mạng lưới không phải chỉ hiện hình chữ nghĩa, nhưng hơn thế còn truyền đạt cả âm thanh và hình ảnh nữa. Sau này chúng ta không cần phải đến tiệm sách, tiệm thuê phim nữa để mua, để mướn, các bits sẽ cung cấp cho chúng ta đầy đủ trên mạng lưới.

Như vậy, trong thế giới của bits chúng ta có đầày đủ mọi kiến thức, mọi dữ kiện, mọi thông đạt. Chúng ta có thể gửi các lời mời của Giáo Hội đến mọi người trên trái đất cùng một lúc để họ có thể đến gặp Chúa Kitô, thay đổi bên Ngài và tuyên tín vào Ngài. Hiện tại và tương lai đang nằm trong tầm tay của bits. Phải chăng Thiên Chúa không muốn chúng ta tận dụng các phượng tiện này để loan báo và làm chứng tá cho Tin Mừng cứu độ của Ngài sao?

Cách đây khoảng hai ngàn năm Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta: “Vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc thượng năng quyền giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người đã có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Col 1: 16)

Tốc độ thay đổi vượt mức

Thế giới coi như cuộc cách mạng kỹ nghệ đã chấm dứt và từ những năm cuối thế kỷ hai mươi, lịch sử nhân loại bước vào thời đại tin học. Bill Gates là điển hình trở thành nhà tỉ phú giầu nhất thế giới không phải do kỹ nghệ, do đất đai, nhưng do tạo dựng các bits, do tin học. Không thể phủ nhận được rằng tốc độ thay đổi xã hội thật nhanh chóng. Và đây là lý do Giáo hội cần quan tâm đến kỹ thuật này đang hướng dẫn thế giới, nhất là giới trẻ. Chúng ta không muốn mất giới trẻ vào tay đoàn ngũ trần tục, chúng ta phải mau mau tiến lên tiền tuyến trong trận chiến thư hùng mạng lưới toàn cầu này. Thuộc về gia đình Chúa, trong hàng ngũ của Chúa Kitô, Giáo hội không thể không hiểu biết thấu đáo các khuynh hướng đang khuynh đảo xã hội và Giáo hội hiện nay.

Với Mạng Lưới Toàn Cầu, con người thế giới đang được nối kết với nhau gần gũi hơn nhờ thông tin và kinh tế. Với tất cả những lợi thế của Mạng Lưới, ngày nay tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng một triệu cơ sở kinh doanh mọc lên, trong khi ở thập niên 60, mỗi năm chỉ có khoảng 50.000 cơ sở mới. Khắp thế giới đang chạy theo tốc độ khổng lồ này của Mỹ quốc.

Người ta đang dự đoán với mức độ các dụng cụ điện tử sản xuất vượt mức như hiện nay, rồi một ngày gần đây, các máy điện tử cũng trở thành phổ biến thuận lợi như các máy Sony Walkman, với giá cả khoảng một trăm Mỹ Kim. Và như vậy hầu như tất cả mọi người, nhất là trẻ em sẽ mang theo bên mình một máy điện toán bỏ túi này. Với tiến trình kỹ thuật như 'vượt bức tường âm thanh' này, Giáo hội cần xoay chuyển thế nào? Dĩ nhiên nội dung của giáo lý vẫn như cũ, nhưng kỹ thuật xoay vần theo tốc độ chóng mặt này, Giáo Hội sẽ đáp ứng thế nào đi theo Đại Lệnh Truyền của Chúa? Chúng ta cần hướng nhìn về tương lai với một tầm nhìn mới và nắm bắt lấy tương lai, vì Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của chuyển động, nhất là Thánh Thần Chúa.

Nhu cầu cấp bách: học hỏi

Để theo kịp đà tiến hóa này của thời đại, mỗi tín hữu, nhất là các nhà lãnh đạo và các chức sắc cần đi vào tổ chức các khóa học hỏi căn bản. Sau đây Wilson giới thiệu với chúng ta chu trình thăng tiến chính mình và Giáo Hội: Học Hỏi mới đưa tới thay đổi Nhận Thức Mới và Thái Độ Mới. Từ đó sẽ phát sinh các Chiến Thuật Mới để dẫn tới các Tiến Trình Mới và xử dụng các Kỹ Thuật Mới. Như vậy, nhờ học hỏi những kiến thức mới mẻ và căn bản về Mạng Lưới Toàn Cầu, nhận thức của chúng ta thay đổi và sẽ đưa tới lối sống thay đổi. Lối sống mới sẽ đẩy chúng ta trở thành chủ động hơn để lên đường tìm kiếm các chiến thuật mới và các phương thức thực hiện mới cho phù hợp với các kỹ thuật mới. Và cứ thế chu trình này được lặp lại thường xuyên.

Người ta kể lại ông tổ phát minh ra chiếc máy bay đầu tiên trở thành trò chế diễu và bình phẩm cho các người chung quanh. Mãi cho đến thời đại của DC-3 được Donald Douglass và C.R. Smith mạnh dạn tiếp tay, thời đại máy bay khởi động mạnh mẽ và hưng thịnh. Tương tự như thế, Hewlett-Packard phác thảo sản phẩm mới tại Silicon Valley đã lôi kéo được hàng ngũ kỹ sư đổ về đây làm việc chung với nhau.

Mỗi công việc hoặc mỗi tiến trình hoàn thành đều được thông báo cho mọi người khác biết. Nhờ lối làm việc tập thể trí năng này, số lượng kiến thức về điện tử trở thành ào ạt như thác lũ. Nhờ những trao đổi kiến thức và sản phẩm này, các kỹ sư trên khắp thế giới ngồi mỗi người một nơi nhưng cùng đạt được những hiệu năng đáng ca ngợi. Kỹ sư chính của VietCatholic Đặng Minh An không ngồi tại Los Angeles làm việc, nhưng tại Úc Châu. Mới hai năm trước đây, tin tức tôn giáo của VietCatholic còn khá nghèo nàn, nhưng tới nay, điển hình vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15, tin tức của VietCatolic khá phong phú. (Bài này được viết cách đây hơn hai năm).

Giáo Hội chúng ta cần nghĩ gì về lề lối làm việc tập thể đầy chủ động, sáng tạo và hợp tác này? Trong phạm vi Giáo Hội Việt Nam, giờ đây, qua mạng lưới toàn cầu, các nhà lãnh đạo có nhiều cơ hội trao đổi và làm việc với nhau, không những tại hải ngoại hay tại quốc nội, nhưng trên mạng lưới, không chính quyền nào có thể ngăn cản người Công Giáo Việt Nam trên toàn thế giới hoạt động mục vụ chung với nhau theo những chương trình, những kế hoạch chung. Trên mạng lưới toàn cầu, Giáo hội của Chúa không còn những kỳ thị nam nữ, trong nước ngoài nước, giáo dân hay giáo sĩ. Người ta dễ dàng tìm thấy Giáo Hội của Chúa tìm về hiệp nhất và hợp tác cho chính nghĩa loan báo và làm chứng tá cho Tin Mừng của Chúa Kitô.

Chúng ta tin tưởng rằng Thánh Thần Chúa chuyển động mỗi khi Tin Mừng của Chúa Kitô được đưa vào các dữ kiện tin học nhỏ nhất (bits). Trong công cuộc Tân Rao Giảng Tin Mừng, chúng ta phải bước ra ngoài cửa để tiếp thị với những người bên ngoài. Làm mục vụ có nghĩa là đi vào đồng cỏ tìm chiên và chăn dắt chiên chứ không phải ngồi trong nhà chờ chiên tìm đến gõ cửa. Lề Lối hoạt động mục vụ này đã lỗi thời từ lâu rồi. Chúa Kitô không có lối làm việc mục vụ như kiểu này, như lề thói này. Wilson nhắc nhở chúng ta:

“Bạn hãy xây dựng mạng lưới tiếp cận ra với thế giới bên ngoài và nài xin Chúa đụng chạm đến cuộc sống những ai bạn tiếp xúc. Chúa cần bạn công bố Lời Ngài, loan báo Lời Ngài, còn Thánh Thần Ngài sẽ tung mạng lưới bắt cá cho Nước Trời như lời sách Giacaria: 'Đức Chúa các đạo binh phán bảo: Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta trao phó, nhưng chính nhờ Thần Khí của Ta'” (Gia.4:6b).

C�m ơn qu� vị, xin mời v�o trang sau đ�y:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • This page is powered by Blogger. Isn't yours?