Egypt Israel Oct 2007




Bấm nút "Download Now"
để cài Windows Media Player. 
Windows Media Player 11
Download Now

Windows Media Download Center
 

Sunday, August 21, 2005

 

Công giáo Tiêu thụ

Viết theo Lm. Richard Rohr

Trong quá khứ, Công giáo đã chịu đựng để duy trì được sức mạnh toàn vẹn khi quy tụ được cả nam tính lẫn nữ tính nơi chính mình trong một tình trạng căng thẳng có hiệu quả. Nhưng rồi cũng xẩy ra những đổ vỡ trong quá khứ thành nhiều mảnh khi ép buộc bằng sức mạnh của mình. Sự khôn ngoan của truyền thống phải là sự phối hợp giữa lòng nhiệt thành của môn sinh với lòng kiên nhẫn của sư phụ.

Tuy nhiên, ngày nay Công giáo đang trong hiểm nguy đánh mất linh hồn của mình. Công đồng Vaticanô II làm giảm thiểu nhiều tính chất trung cổ của Giáo hội với đường lối tu đức nữ tính của truyền thống Giáo hội. Nhìn bề mặt chúng ta có thể nhìn thấy những thay đổi như giảm thiểu lòng tôn sùng Đức Mẹ và việc thay đổi cách ăn mặc có vẻ trần thế hơn cho hàng giáo sĩ. Tuy nhiên, dưới vẻ bề mặt đó, những thay đổi thâm sâu hơn và khó nhìn ra đang tiến hành.

Đời sống tâm linh bao gồm nhiều lãnh vực đời sống. Ở đây chúng ta giới hạn vào ba lãnh vực: đời sống tri thức của Giáo hội tân tiến, đời sống biểu tượng và đời sống cầu nguyện.

Công giáo hãnh diện về truyền thống tri thức. Các bậc Giáo phụ trong Giáo hội như Athanesius, John Chrysostom, Augustinô, và một số vị khác, phần đông là giám mục là những nhà lãnh đạo trí thức của thời đó, viết các tác phẩm thần học và giáo lý, sáng tác phụng vụ, tranh biện các vấn đề tín lý và luân lý nơi các diễn đàn công cộng. Các Đại học lớn nhất tại Âu châu - Oxford, Paris, Bologna, và một số nơi khác - lớn lên dần từ các tu viện và các trường của vương cung thánh đường, đã duy trì được kho khôn ngoan của nền cổ đại cổ điển và đem lại đời sống mới theo lối dàn dựng của Kitô giáo. Qua thời Trung cổ và bước vào thời tân tiến, truyền thống tri thức Công giáo đã duy trì được các nghệ thuật tự do, nền giáo dục cởi mở trí óc hướng về nghệ thuật sống, như nền tảng cho hiểu biết thế giới nhân linh và vũ trụ vật chất chúng ta đang sống.

Một cuộc nghiên cứu mới đây của các đại học Hoa Kỳ kết luận rằng tất cả các phân khoa nổi tiếng hàng đầu tại Hoa Kỳ ngày nay, không một phân khoa nào nằm trong đại học Công giáo nữa, ngay cả trong các lãnh vực như triết học, thần học, đã được coi là thành trì truyền thống Công giáo. Tại mỗi đại học Công giáo mức đòi hỏi tốt nghiệp không còn phải là từ tám đến mười hai lớp trong các môn triết lý và thần học nữa như các thế hệ xưa kia, nhưng chỉ còn hai hoặc bốn hoặc sáu lớp là nhiều nhất. Các học viện Công giáo có nền giáo dục cao cấp hơn đang theo khuynh hướng tân tiến thay thế bằng huấn luyện nghề nghiệp cho các môn nghệ thuật tự do, theo khuynh hướng đặt việc học làm thế nào kiếm được công ăn việc làm cho cuộc sống.

Nhiều sinh viên Công giáo ngày nay không ý thức về ý tưởng nguyên thủy của đại học ít quan tâm đến chuẩn bị nghề nghiệp và những gì cần thiết cho cuộc sống. Mục đích của đại học thời trước là khai triển kho minh triết của mọi thời đại phát triển con người toàn diện. Nền đại học mang tính chất tâm linh hơn là chuyên biệt, đại đồng hơn là thực hành hẹp hòi. Và chúng ta có thể nói nền đại học này mang nữ tính nhiều hơn nam tính.

Ý tưởng nữ tính của nền giáo dục chính là thẩm định toàn cảnh trước khi đi vào các môn học chuyên biệt, chính là hiểu được mối tương quan giữa các sự vật và hiểu được chỗ đứng của chúng ta trong các mối tương quan đó. Nền giáo dục này khai triển ý thức trách nhiệm với thế giới chúng ta đang sống và săn sóc cho con người đang sống trong cuộc sống này. Tuy nhiên, ý tưởng nữ tính này ngày nay đang mất dần không những trong các đại học ngoài đời, nhưng ngay cả trong các đại học Công giáo nữa. Càng ngày những môn chính của các sinh viên càng hướng về các lãnh vực kỹ thuật và làm tiền, và như vậy truyền thống cao cả theo đuổi kho tàng khôn ngoan
đang bị bỏ rơi, nhượng đất cho theo đuổi tư lợi.

Viễn ảnh giáo dục của chúng ta đang bị thu hẹp lại song song với việc co rút lại viễn ảnh biểu tượng (symbolic vision) của chúng ta. Như chúng ta đã thấy trong quá khứ các nhà lãnh đạo Kitô giáo có khả năng sáng tạo nghệ thuật. Thời xưa, các bí tích của Giáo hội khai triển từ những nghi lễ đơn sơ thành lễ nghi đầy biểu tượng trang trọng lôi kéo các tín hữu đi vào cảm nghiệm Thiên Chúa và chiêm ngắm các mầu nhiệm Kitô giáo. Thời Trung cổ, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, kịch nghệ đã khơi động óc tưởng tưởng các tín hữu đến các thực tại vô hình. Tuy nhiên, ngày nay cả hai lãnh vực phụng vụ và nghệ thuật ít gây được sáng tạo và viễn ảnh.

Đời sống biểu tượng Kitô giáo giảm thiểu dần trong thế giới chúng ta sống hiện nay. Khi xã hội chúng ta càng ngày trở thành thực tiễn và kỹ thuật, chúng ta ít được đẩy tới chiêm niệm và ngược lại tới vận động nhiều hơn. Khi cuộc sống chúng ta trở thành bận rộn hơn, chúng ta ít có thời giờ thẩm định được mạc khải của Thiên Chúa trong thế giới chung quanh. Kết quả là chúng ta đánh mất những đụng chạm tới ngôn ngữ của biểu tượng, chúng ta đang đánh mất khả năng tiếp xúc với bí tích. Các Kitô hữu không nói với thế giới qua nghệ thuật. Trong khi đó phần đông nghệ thuật trong thế giới chúng ta là nghệ thuật thương mại.

Nghệ thuật Kitô giáo chỉ còn là lặp đi lặp lại buồn tẻ một nền nghệ thuật tôn giáo của quá khứ. Nhạc phụng vụ giới hạn với những gì thích hợp trong sách lễ, và có một lối thánh ca mới đang được viết ra. Chính phụng vụ đang giảm thiểu chiều dài và kém tính chất biểu tượng. Nhiều nhà thờ mới được xây dựng theo các khối hình hộp ít gây linh cảm. Một cách buồn thảm, Giáo hội không còn là người đỡ đầu của nghệ thuật như trong quá khứ.

Dầu cho thế nào đi nữa, ít ra Giáo hội phải là người đỡ đầu của cầu nguyện và nâng đỡ sức tăng trưởng tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta có đủ lý do để tự hỏi thực tế có như vậy không? Ngoài việc thâu hẹp viễn ảnh giáo dục và co rút đời sống biểu tượng, xem ra chúng ta đang đau khổ vì đời sống cầu nguyện đang suy sụp trong Giáo hội.

Một lần nữa những cuộc song hành này đang diễn ra trong nền văn hóa của chúng ta. Những hiện tượng nhìn thấy được là việc tục hóa vẫn gia tăng trong xã hội chúng ta, việc đẩy lui những gì liên quan đến cầu nguyện và tôn giáo trong nền giáo dục công cộng và việc tách rời giữa nhà nước và tôn giáo đã được Quốc hội đóng khung. Chúng ta đau khổ vì những gì đang xẩy ra chung quanh trong nền văn hóa của chúng ta hơn là trong quá khứ.

Trong thế giới cổ đại và trung cổ và cho tới mới đây thôi trong thời tiên tiến, trở thành người Công giáo có nghĩa là được đưa vào đại truyền thống Do Thái-Kitô giáo. Trong những thế kỷ đầu người ta được đưa vào cộng đoàn Kitô giáo sau tiến tình dài dẵng 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh chuẩn bị Đêm Canh thức Phục Sinh. Trong các thế kỷ Trung cổ người tín hữu được bao quanh bằng nền văn hóa Kitô giáo luôn luôn nói với họ về các tổ phụ Do Thái, các ngôn sứ, Chúa Giêsu và các môn đệ, Mẹ Maria và các thánh. Ngày nay nhiều người Công giáo lớn lên không hay biết về gia tài tôn giáo này.

Quên sót những sự kiện về quá khứ không quan trọng bằng quên sót những giá trị của các sự kiện này biểu tượng. Có một giá trị vượt xa những gì cầu xin Thiên Chúa khấng ban cho những ước muốn của mình. Có một giá trị của chiêm niệm chỉ học được trong cảm nghiệm thực hành đều đặn. Chỉ có một giá trị trong phát triển tâm linh được trình bầy trong hạnh các thánh và các tác phẩm thần bí, nhưng điều đó không được khám phá cho đến khi người ta đi vào đối thoại với các nhân vật anh hùng trong quá khứ và dần dần nhận ra những gì đã đưa các ngài tới chỗ cao cả.

Điều làm các ngài cao cả chính là mối tình tận hiệp cá thế với Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong chiêm niệm hàng ngày. Các ngài dành ra thời giờ lắng nghe tiếng Chúa gọi tiến đến một trình độ thực tại sâu thẳm hơn là thế giới bao quanh các ngài. Các ngài đáp ứng lời mời gọi của Chúa để triển nở thực tại tâm linh ngay chính trung tâm đời sống các ngài. Các ngài đi vào Nước Trời bằng cửa hẹp thay vì đi theo lối đường rộng rãi thênh thang của thành công và thành toại trong thế giới.

Dầu chúng ta nghe nói nhiều về cầu nguyện trong Giáo hội ngày nay, nhưng chúng ta nhìn thấy ít người thực sự được dậy cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện Công giáo - không kể Lễ Chúa Nhật, có tính cách cầu nguyện công cộng hơn là tư riêng - đã suy sụp khi nói về cầu nguyện, một bước xa rời khỏi chuyện thực tế. Chúng ta học cầu nguyện thực sự, tuy nhiên, không bằng nghe về cầu nguyện, cũng không bằng được bảo phải cầu nguyện, nhưng bằng đi vào cảm nghiệm cầu nguyện với những người khác. Ít có cơ hội đi vào cảm nghiệm này tồn tại trong Giáo hội ngày nay.

Cầu nguyện mang tính chất nữ tính. Đó không phải là tình trạng động, nhưng là tình trạng tĩnh. Đó không phải là hoàn thành, nhưng là an nghỉ. Đó không phải là thể hiện, nhưng là liên hệ thân tình. Đó là tập trung vào Chúa và tiếp nhận Lời Ngài nói với chúng ta trong thanh lặng. Cầu nguyện xẩy ra bên trong và được diễn tả ra bên ngoài bằng biểu tượng hoặc bằng lời hoặc bằng cử điệu hoặc bằng các sáng tạo nghệ thuật. Có lẽ linh hồn đang đi ra khỏi nghệ thuật Kitô giáo vì cầu nguyện đang đi ra khỏi đời sống Kitô giáo. Nghệ thuật diễn tả điều bên trong, nhưng nếu không có gì bên trong, cũng chẳng có gì để diễn tả.

Nền văn hóa Công giáo Hoa Kỳ của chúng ta cũng giống như nền văn hóa Hoa Kỳ tổng quát càng ngày càng mang nhiều nam tính, có nghĩa là càng hướng đến hoàn thành công việc, hướng đến quyền lực và hướng đến tiêu thụ nhiều hơn. Chúng ta đồng hóa thành công với khả năng tiêu dùng càng ngày càng nhiều. Chúng ta thần tượng hoá lối sống của những người giầu có và nổi tiếng là những người đã đạt tới trình độ tiêu sài vượt mức.

Đó là lý do tại sao các đại học của chúng ta đã bỏ rơi đi tìm kho khôn ngoan, mang nữ tính, mang hoạt động chiều sâu, để chạy theo khoa bảng và tài lộc. Chúng ta trở thành những nhà tiêu thụ giáo dục thay vì là những nhà đi kiếm tìm chân lý và kiến thức. Chúng ta làm chuyện đó không những trong các học đường. Chúng ta tham dự các khóa tu nghiệp hoặc hội thảo, chúng ta đọc sách báo hoặc nghe băng hoặc xem truyền hình, chúng ta mù quáng tin tưởng rằng chúng ta càng hưởng thụ nhiều, chúng ta càng trở thành hoàn hảo hơn. Không quan trọng môn chúng ta học hỏi là trần tục hoặc tôn giáo, kiểu mẫu và hiệu quả cũng giống nhau. Chúng ta trở thành những nhà kho chứa những thông tin tiêu dùng và quên lãng vì chúng ta không dành ra thời giờ cho tâm hồn sàng lọc qua những rác rưởi và tìm thấy bất cứ kho tàng nào ẩn tàng trong đó.

Tương tự thế, chúng ta đã đánh mất cảm quan của chúng ta về nghệ thuật vì chúng ta cho rằng phỏng đoán thì hay hơn. Thay vì trở thành mẫn cảm với nghệ thuật, chúng ta trở thành những tay tiêu dùng nghệ thuật. Trong bất cứ một đại tác phẩm nào, người nghệ sĩ đổ hết tâm hồn mình vào đó và tâm hồn chúng ta chỉ có thể nối kết vào đó bằng dành ra thời giờ chiêm ngắm và khai triển tâm tư vào đó. Tuy nhiên, điều chúng ta làm chỉ là chạy đua qua các bảo tàng viện, các phòng triển lãm để nhìn xem nhiều bao nhiêu có thể, chứ không cần dành ra thời giờ nhìn vào chiều sâu của tác phẩm. Chúng ta sưu tầm nghệ thuật tiêu thụ trong nhà chúng ta, với hy vọng hão huyền rằng nhờ chúng ta có nhiều tác phẩm chúng ta trở nên uyên bác hơn. Như vậy chúng ta cũng chẳng nhìn xem được tất cả những gì chúng ta đang có.

Công giáo tiêu thụ cũng có kiểu mẫu như thế và hậu quả cũng như thế thôi. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng đi nhà thờ, chúng ta càng trở thành đạo đức. Chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta đem người khác tới nhà thờ thì đương nhiên đời sống tâm linh của họ tốt hơn. Tuy nhiên làm như thế, chúng ta không giúp họ trở thành Kitô hữu hơn, thực ra chúng ta chỉ biến họ trở thành những người đi nhà thờ thì đúng hơn. Cả họ lẫn chúng ta chẳng tiến sâu vào những gì Giáo hội, phụng vụ, cầu nguyện mong muốn. Việc chúng ta dấn thân với Chúa chỉ là hời hợt bề ngoài, nhưng sự yếu kém và suy sụp được ngụy trang bằng lối sống đạo đức bề ngoài trong đời sống chúng ta. Lối sống tôn giáo này có thể là một hình thức đạo hạnh nghiện ngập.

Công giáo tiêu dùng rất có thể là tận cùng của truyền thống Công giáo. Nếu thành công, chủ nghĩa này hẳn còn tiếp tục là một hãnh diện của Công giáo, nhưng một Công giáo không hồn. Chủ nghĩa này vĩnh viễn hóa các cấu trúc nam tính của Giáo hội trong khi đành đánh mất nữ tính cởi mở tấm lòng đến với Chúa. Chủ nghĩa này lừa gạt chúng ta đi vào suy nghĩ rằng bao lâu chúng ta còn các giáo xứ, các trường học, các chương trình giáo dục và xã hội, các hàng hoá và các nhà sách Công giáo, như thế truyền thống Công giáo vẫn sống tốt tươi và hưng phát.

Tuy nhiên, chủ nghĩa tiêu dùng Công giáo lại rất đối nghịch với truyền thống Công giáo đã được duy trì suốt 2000 năm qua. Chủ nghĩa này chất chứa tất cả những gì xấu xa nhất của Công giáo chủng tộc, Công giáo cơ chế, Công giáo phi Kinh Thánh và Công giáo không đòi hỏi, trong khi không thấm nhiễm đường lối tu đức cần được vĩnh viễn hóa. Chủ nghĩa Công giáo tiêu dùng là một loại sùng đạo không biết suy tư, chẳng sáng tạo và cũng chẳng cầu nguyện. Chủ nghĩa này hoạt động không hướng đích, lời nói rỗng tuếch, một vỏ sò hư ảo.

Hết chương hai

Comments: Post a Comment

<< Trở về trang Mục Lục
C�m ơn qu� vị, xin mời v�o trang sau đ�y:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • This page is powered by Blogger. Isn't yours?